Bản án 76/2021/HNGĐ-ST ngày 31/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 76/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 31 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 127/2021/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2021 và Thông báo thay đổi thời gian xét xử số 61/TB-TA ngày 10 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H sinh năm 1989; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Đội 8, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Vũ Thị L sinh năm 1987; nơi cư trú: Thôn 2, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện ngày 26 tháng 3 năm 2021 và quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Vũ Thị L trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 23 tháng 9 năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng với bố mẹ anh L tại thôn 2, xã B. Vợ chồng chung sống vui vẻ hạnh phúc đến năm 2009 thì xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh L chơi cờ bạc, không chăm lo đến gia đình, mỗi lần chị góp ý khuyên can thì anh L đánh và đuổi chị ra khỏi nhà. Do mâu thuẫn căng thẳng nên chị đã về anh trai tại Thủy Nguyên ở từ đầu năm 2021 đến nay vợ chồng sống ly thân không ai còn quan tâm và có trách nhiệm với ai nữa. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể khắc phục được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Thị L và chị không đồng ý đoàn tụ với anh L.

Về con chung: Chị và anh L có ba con chung là Vũ Thị H sinh ngày 18 tháng 4 năm 2009, Vũ Thị Xuân M sinh ngày 30 tháng 6 năm 2016 và Vũ Văn Đức L sinh ngày 06 tháng 8 năm 2019. Ly hôn chị đề nghị Tòa án giao con chung Vũ Văn Đức L cho chị nuôi dưỡng vì con còn nhỏ, giao hai con chung Vũ Thị H và Vũ Thị Xuân M cho anh L nuôi dưỡng. Từ khi vợ chồng ly thân chị về ở nhờ nhà anh trai nên chị không có đủ điều kiện về chỗ ở và kinh tế để nuôi hai con, anh L và các con ở cùng với ông bà nội có nhà ở lại được ông bà nội hỗ trợ trong việc chăm sóc các con. Anh L nuôi hai con thì chị sẽ cấp dưỡng cho anh L nuôi con Vũ Thị Xuân M là 1.000.000đồng/tháng.

Về tài sản chung: Chị và anh Vũ Thị L không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn anh Vũ Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Thời gian, điều kiện kết hôn của vợ chồng như lời khai chị Nguyễn Thị H đã khai ở trên. Quá trình chung sống anh và chị H có xẩy ra mâu thuẫn nhưng chỉ là mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống hàng ngày, việc anh chơi bài không ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, anh vẫn có trách nhiệm cùng chị H chăm lo cho các con. Ngoài ra nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng còn do chị H không khéo léo trong lời nói với anh hàng ngày, chị H mê tín hay đi xem bói anh có góp ý thì chị H lại trách anh nên mâu thuẫn vợ chồng mới xẩy ra. Khi vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn anh có tát chị H một vài lần và chị H cũng đã nhiều lần bỏ về nhà anh trai ở, anh cũng đã nhiều lần đi tìm chị H về nhưng từ đầu năm 2021 đến nay chị H đã bỏ nhà đi và vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, chị H không quay về chung sống với anh nữa. Hiện tại anh được biết chị H cũng đã bỏ nhà anh trai đi chỗ khác ở từ ngày 30 tháng 8 năm 2021 và mẹ, anh trai chị H cũng không biết chị H đang ở đâu, hiện các con đang ở với ông bà nội chị H cũng không nuôi con nào. Nay anh vẫn còn tình cảm với chị H và vì các con còn nhỏ nên anh không đồng ý ly hôn với chị H.

Về con chung: Anh và chị H có ba con chung như lời trình bày của chị Hường. Tại các bản khai và tại phiên hòa giải anh L có quan điểm nếu giải quyết ly hôn anh đề nghị Tòa án giao con Vũ Thị Xuân M cho anh nuôi dưỡng và giao hai con Vũ Thị H, Vũ Văn Đức L cho chị H nuôi dưỡng, anh và chị H không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai. Từ khi vợ chồng ly thân thì chị H nuôi cháu L, anh nuôi hai cháu lớn, từ tháng 5/2021 đến giữa tháng 8/2021 thì ba con đều sang ở với chị H tại nhà anh trai chị H ở Thủy Nguyên nhưng từ giữa tháng 8/2021 đến nay anh đã đón cả ba con về ở cùng với ông bà nội. Hiện tại anh làm lái xe không có nhiều thời gian chăm sóc các con và phải nhờ ông bà nội chăm sóc nên tại phiên tòa anh L thay đổi quan điểm về con chung, cụ thể anh không đồng ý với quan điểm của chị H về việc nuôi con mà anh đề nghị Tòa án giao ba con chung cho chị H nuôi dưỡng và anh sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng cho chị H nuôi con Vũ Thị Xuân M là 1.500.000đồng/tháng.

Về tài sản chung: Anh và chị H không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định tại các điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 của Bộ luật Dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 110, 116, 117 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hường được ly hôn anh L; về con chung: Giao con chung Vũ Văn Đức L cho chị Hường nuôi dưỡng, giao con chung Vũ Thị H và Vũ Thị Xuân M cho anh L nuôi dưỡng đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Chị Hường có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh L nuôi con Vũ Thị Xuân M 1.000.000đồng/tháng, thời gian cấp dưỡng nuôi con tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung Vũ Thị Xuân M đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; Về tài sản: Không giải quyết; Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn chị Nguyễn Thị H.

- Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của các đương sự, tài L, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và tài L, chứng cứ do Tòa án thu thập, đủ cơ sở xác định: Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 23 tháng 9 năm 2008 tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng, theo quy định tại các điều 8, 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình đây là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống vui vẻ hạnh phúc đến năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn và mâu thuẫn vợ chồng trở lên căng thẳng từ đầu năm 2021 đến nay. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do hai bên bất đồng quan điểm sống, do anh L không chăm lo cho gia đình và vợ chồng đã sống ly thân đầu năm 2021 đến nay không ai quan tâm và có trách nhiệm với ai nữa. Anh L xác định vẫn còn tình cảm với chị H nhưng từ khi vợ chồng ly thân anh L không có biện pháp nào để khắc phục mâu thuẫn. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh L đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị H là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Thị L có ba con chung là Vũ Thị H sinh ngày 18 tháng 4 năm 2009, Vũ Thị Xuân M sinh ngày 30 tháng 6 năm 2016 và Vũ Văn Đức L sinh ngày 06 tháng 8 năm 2019. Chị H và anh L đều có tranh chấp về người trực tiếp nuôi con sau ly hôn. Xét, việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung chưa thành niên là quyền và trách nhiệm của cha mẹ sau ly hôn. Chị H và anh L đều đang ở độ tuổi lao động và đều đang có công việc, thu nhập nên đều có khả năng nuôi dưỡng và chăm sóc các con. Hiện tại anh L và các con đang ở cùng với bố mẹ đẻ anh L và được bố mẹ đẻ tạo điều kiện về chỗ ở cũng như giúp đỡ trong việc chăm sóc các con, còn chị H không có nhà ở phải ở nhờ nhà anh trai nên điều kiện về chỗ ở của anh L tốt hơn chị H. Mặt khác hai con Vũ Thị H đang học tiểu học và Vũ Thị Xuân M cũng đang đang học mẫu giáo tại xã B còn con Vũ Văn Đức L hiện dưới 36 tháng tuổi, do vậy để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các con nên giao cho chị H nuôi dưỡng con Vũ Văn Đức L, giao cho anh L nuôi hai con là Vũ Thị H và Vũ Thị Xuân M là phù hợp với quy định tại Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Hiện tại chị H mới xin được việc làm thu nhập 4.970.000 đồng/tháng, với mức thu nhập của chị H thì quan điểm của chị H về việc cấp dưỡng cho anh L nuôi con Vũ Thị Xuân M 1.000.000đồng/tháng là phù hợp với thu nhập và điều kiện của chị Hường nên chấp nhận yêu cầu của chị Hường về việc cấp dưỡng, buộc chị H cấp dưỡng cho anh L nuôi con Vũ Thị Xuân M là 1.000.000đồng/tháng. Thời hạn cấp dưỡng nuôi con tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con Vũ Thị Xuân M đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anhVũ Thị L không có tài sản và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp án phì ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 của Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 58, 81, 82, 83, 110, 116, 117 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Vũ Thị L.

2. Về con chung: Giao con chung Vũ Văn Đức L sinh ngày 06 tháng 8 năm 2019 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Vũ Thị H sinh ngày 18 tháng 4 năm 2009 và Vũ Thị Xuân M sinh ngày 30 tháng 6 năm 2016 cho anh Vũ Thị L trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị H có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh Vũ Thị L nuôi con chung Vũ Thị Xuân M 1.000.000đồng (Một triệu đồng)/tháng. Thời hạn cấp dưỡng nuôi con tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung Vũ Thị Xuân M đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án là anh Vũ Thị L cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án là chị Nguyễn Thị H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án đối với anh Vũ Thị L theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về tài sản: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn và 300.000đồng án phí cấp dưỡng nuôi con để nộp ngân sách Nhà nước, tổng cộng chị Hường phải nộp 600.000đồng án phí, chị Hường đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí tại Biên lai thu tiền số 0013160 ngày 07 tháng 5 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, nay chị Hường phải nộp tiếp số tiền 300.000 đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Bị đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Về quyền yêu cầu thi thi hành án: Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 76/2021/HNGĐ-ST ngày 31/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:76/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;