Bản án 76/2020/HSST ngày 26/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ P Y, TỈNH T N

BẢN ÁN 76/2020/HSST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 5 năm 2020, tại Hội trường xét xử - Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã PY, tỉnh TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 56/2020/TLST-HS, ngày 20 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trang Văn Nh1, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 25/3/2002; tại: Đại Từ, TN (Đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 17 tuổi 9 tháng 18 ngày) Nơi cư trú: Tổ dân phố 2, thị trấn Q, huyện ĐT, tỉnh TN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Trang A L1, sinh năm 1955, con bà: Lê Thị DUNG, sinh năm 1966; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/01/2020, tạm giam từ ngày 21/01/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TN (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Lê Thị DUNG, sinh năm 1966 (có mặt)

Nơi cư trú: Tổ dân phố 2, thị trấn Q, huyện ĐT, tỉnh TN.

- Người bào chữa: Bà Nguyễn Thị DUNG – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh TN.

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Văn V3, sinh năm 1964 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Tổ dân phố 3, phường BS, thị xã PY, tỉnh TN.

2. Anh Hoàng Văn Đ, sinh năm 1982 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Tổ dân phố TĐ, phường BS, thị xã PY, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 00 phút ngày 12/01/2020, tổ công tác Công an phường BS, thị xã PY tiến hành làm nhiệm vụ tại khu vực Tổ dân phố 3, phường BS, thị xã PY thì phát hiện tại khu vực đường T05, thuộc địa phận Tổ dân phố 3, phường BS, thị xã PY đối tượng nam giới có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, đối tượng nam giới khai tên là Trang Văn Nh1, sinh ngày 25/3/2002, trú tại: Tổ dân phố 2, thị trấn Q, huyện ĐT, tỉnh TN và tự giác lấy trong túi quần đang mặc bên phải ra giao nộp cho tổ công tác 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, bên trong có 01 gói chất bột mầu trắng đục (Nh1 khai đó là Heroine, mua về để sử dụng).

Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, sau đó bàn giao hồ sơ cùng đối tượng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã PY để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 12/01/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã PY đã tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng số chất bột mầu trắng thu giữ của Trang Văn Nh1 có khối lượng là 0,137 gam; lấy toàn bộ số chất bột mầu trắng trên niêm phong trong phong bì ký hiệu M gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN tiến hành giám định.

Tại Bản kết luận giám định số 231/KL-KTHS ngày 20/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN, đã kết luận: “Mẫu chất rắn mầu trắng đục trong phong bì ký hiệu M gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,137gam).

Tại cơ quan điều tra Trang Văn Nh1 đã khai nhận: Do bản thân Nh1 là đối tượng nghiện ma túy, nên khoảng 12 giờ ngày 12/01/2020 Nh1 được một người nam giới tên Hùng (Nh1 không biết họ tên địa chỉ cụ thể) rủ đi mua ma túy về để sử dụng cùng. Nh1 đồng ý và đi cùng với Hùng đến khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã PY vào một nhà có cửa sắt đóng kín, nằm bên phải quốc lộ 3 cũ, Nh1 cầm 200.000đ đưa qua ổ cửa mua được 01 gói ma túy loại Heroine (Nh1 không xác định được chủ ngôi nhà và người bán ma túy là ai), Sau đó Nh1 và Hùng đi về khu vực đường T05, thuộc tổ dân phố 3, phường BS để sử dụng chung. Khi đến nơi Hùng bảo Nh1 đứng đó đợi để Hùng đi có việc, trong khi Nh1 đứng đợi thì bị Tổ công tác của Công an phường BS đến kiểm tra và bắt giữ như đã nêu trên.

Do có hành vi nêu trên, nên tại bản cáo trạng số 72/CT-VKSPY, ngày 20/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã PY, tỉnh TN đã truy tố bị cáo Trang Văn Nh1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, sau khi kết thúc phần thẩm vấn công khai, Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã PY thực hành quyền công tố tại phiên tòa trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố như bản cáo trạng số 72/CT-VKSPY, ngày 20/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã PY, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo Trang Văn Nh1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 90, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/01/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “M”, bên trong chứa 0,118 gam heroine hoàn lại sau giám định; 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “N” lưu vỏ bao mẫu, 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “B”, bên trong chưa 01 bỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long.

Ngoài ra còn đề nghị về phần án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận việc truy tố, xét xử bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo không tranh luận gì với quan điểm đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt đề nghị áp dụng. Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị HĐXX xét xem cho được hưởng mức án thấp nhất để sớm hòa nhập cộng đồng, thành người có ích cho xã hội.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Nhất trí với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo, tuy nhiên bị cáo tuổi đời còn trẻ, khi thực hiện hành vi phạm tội là người chưa thành niên. Do vậy đề nghị HĐXX: xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất so với mức đề nghị của đại diện viện kiểm sát, đồng thời miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đại diện hợp pháp cho bị cáo bà Lê Thị DUNG cũng không tranh luận với quan điểm đề nghị của đại diện viện kiểm sát, nhất trí với quan điểm, đề nghị của người bào chữa, đồng thời đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội DUNG vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã PY, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã PY, Kiểm sát viên trong điều tra, truy tố: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an thị xã PY, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã PY, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Trang Văn Nh1 tại phiên toà hôm nay là khách quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra và lời khai lời khai của những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 12/01/2010, tại khu vực đường T05, thuộc tổ dân phố 3, phường BS, thị xã PY, tỉnh TN, Trang Văn Nh1 đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,137 gam ma túy, loại Heroine, nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Nguồn gốc số ma túy trên theo Nh1 khai là do Nh1 cùng với một đối tượng nam giới tên Hùng đi đến xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã PY mua để cùng sử dụng chung.

Hành vi nêu trên do bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Bản cáo trạng số 72/VKSPY ngày 20/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã PY đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ.

Khoản 1 Điều 249 của BLHS quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trườn g hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine ……có khối lượng từ 01 gam đến dưới 5 gam.”

[3]. Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, động cơ dẫn đến việc phạm tội, HĐXX thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc loại tội nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, nên cần phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự nhằm mục đích răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Nguyên nhân, động cơ dẫn đến việc phạm tội do bị cáo không chịu lao động, tu dưỡng nên mắc nghiện ma túy, để phục vụ cho nhu cầu bản thân, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên.

[4]. Xét các yếu tố về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng:

- Về nhân thân: Sinh ra và lớn lên tại Tổ dân phố 2, thị trấn Q, huyện ĐT, từ nhỏ được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 8/12, sau đó nghỉ học ở nhà lao động tự do tại địa phương; Bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. - Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình – Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5]. Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các yếu tố về nhân thân, HĐXX thấy rằng cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra hỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, mới đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời răn đe, giáo dục phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng xét thấy bị cáo có tuổi đời còn trẻ, khi phạm tội là người chưa thành niên, do vậy cần áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội để quyết định mức án cho cho phù hợp, vừa đảm bảo tính răn đe, giáo dục, nhưng cũng thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Mức án mà đại diện viện kiểm sát và người bào chữa đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, đồng thời không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Liên quan đến vụ án này còn có đối tượng tên Hùng (là người theo Nh1 khai là cùng đi mua ma túy về sử dụng chung), đối tượng nhà ở xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành (người đã bán ma túy cho Nh1). Do Nh1 không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã PY tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[7]. Về vật chứng vụ án: Còn lại 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “M”, bên trong chứa 0,118 gam heroine hoàn lại sau giám định; 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “N” lưu vỏ bao mẫu, 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “B”, bên trong chưa 01 bỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long - Xác định là vật cấm lưu thông, không còn giá trị sử dụng nên cần xử lý tịch thu tiêu hủy.

[8]. Về chi phí tố tụng: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 90, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trang Văn Nh1 phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Về hình phạt: Xử phạt: Bị cáo Trang Văn Nh1 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/01/2020.

Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo công tác thi hành án.

3. Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “M”, bên trong chứa 0,118 gam heroine hoàn lại sau giám định; 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “N” lưu vỏ bao mẫu, 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “B”, bên trong chưa 01 bỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã PY với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã PY, ngày 06/5/2020 )

4. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trang Văn Nh1 phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 76/2020/HSST ngày 26/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;