TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 76/2019/HS-ST NGÀY 25/07/2019 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 25 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đ mở phiên tòa xét xử kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 78/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn H, sinh năm 1995 tại Đồng Nai; nơi cư trú xóm 02, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; chổ ở hiện nay ấp 08, xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn) 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1964, mẹ (chưa nhân thân, lai lịch); bị cáo chưa có vợ, con; tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/3/2019 cho đến nay, “có mặt”.
Người bị hại: Cháu Nguyễn Thị Yến N, sinh ngày 31/01/2005; trú tại địa chỉ ấp 7, xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt”.
Người đại diện hợp pháp của người bị hại cháu Nguyễn Thị Yến N: Ông Nguyễn Khắc H, sinh năm 1983 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1983; cùng trú tại địa chỉ ấp 7, xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (cha mẹ ruột của người bị hại).
Người được ủy quyền làm người đại diện hợp pháp của người bị hại cháu Nguyễn Thị Yến N tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Khắc H, sinh năm 1983 (cha ruột của người bị hại) “có mặt”.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại cháu Nguyễn Thị Yến N: Bà Hoàng Thị Hà - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thuộc Sở Tư pháp tỉnh Bình Phước “có mặt”.
Người làm chứng: Anh Trần Hữu P, sinh năm 1994; nơi cư trú ấp 8, xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 12 năm 2018, Nguyễn Văn H, sinh năm 1995 quen biết rồi nảy sinh mối quan hệ yêu đương nam nữ với cháu Nguyễn Thị Yến N, sinh ngày 31 tháng 01 năm 2005. Thời gian này, N thường đến phòng trọ của H tại ấp 8, xã T, thành phố Đ chơi. Khoảng 19 giờ ngày 06/02/2019, khi H và N đang ở trong phòng thì H khóa cửa phòng rồi ôm hôn N và xin N cho quan hệ tình dục thì N đồng ý. H cởi quần áo của N rồi tự cởi quần áo của mình. H để N nằm ngửa trên chiếc chiếu được trải trong phòng còn H nằm lên người N rồi đưa dương vật của mình vào bên trong âm hộ của N và thực hiện hành vi giao cấu với N khoảng 02 phút thì H xuất tinh ra ngoài âm hộ của N. Sau khi quan hệ tình dục xong, N ngồi chơi và nói chuyện với H thêm khoảng 30 phút thì đi về nhà. Sau lần quan hệ này, đến cuối tháng 02/2019, H tiếp tục quan hệ tình dục với cháu N thêm 5 (năm) lần nữa tại phòng trọ của H.
Sau khi biết được sự việc, ngày 07/3/2019, ông Nguyễn Khắc H là cha ruột của cháu N đã tố cáo hành vi của Nguyễn Văn H đến Công an xã T. Ngày 07/3/2019, Nguyễn Văn H đến Công an xã T đầu thú.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 75/2019/TD ngày 13/3/2019 của Trung tâm Pháp y Sở y tế tỉnh Bình Phước xác định dấu vết tổn thương âm hộ của Nguyễn Thị Yến N như sau:
- Màng trinh: hình đèn xếp, dãn đường kính #1,5cm, có vết rách cũ nông ở vị trí 8h, không bầm tím, không xung Hết.
- Hiện tại không có thai.
Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Đ thu giữ của Nguyễn Văn H: 01 (một) quần sọc kaki, màu xám, dài 30cm, trên ống quần bên trái có chữ PURPOSEFOUR. Thu giữ của Nguyễn Thị Yến N: 01 (một) áo thun ngắn tay màu đen, dài 64cm, rộng 40cm, có sọc trắng; 01 (một) quần thun dài hiệu Adidas, màu đen, dài 82cm, lưng quần rộng 28cm, có sọc trắng bên hông quần.
Tại Bản cáo trạng số 79/CT-VKS-ĐX ngày 19/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H mức án từ 04 đến 05 năm tù.
Về trách Nệm dân sự: Do đại diện hợp pháp của người bị hại không có yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về vật chứng vụ án: Do những vật chứng thu giữ được trong quá trình điều tra không còn giá trị sử dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.
Bị cáo H tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản trạng số 79/CT-VKS-ĐX ngày 19/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố bị cáo.
Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại, với kết luận điều tra, kết luận giám định pháp y về tình dục, biên bản người phạm tội ra đầu thú cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Lợi dụng việc cháu Nguyễn Thị Yến N, sinh ngày 31/01/2005 còn nhỏ tuổi nên trong khoảng thời gian từ ngày 06/02/2019 đến cuối tháng 02/2019 Nguyễn Văn H đã 6 lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu N.
[3] Căn cứ vào hành vi bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 145 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo đã 06 lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu N nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố bị cáo về tội“Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người phụ nữ, gây ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của người bị hại, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần có mức án nghiêm để xử phạt đối với bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời để ngăn ngừa chung trong xã hội.
[5] Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội bị cáo đã đến Cơ quan Công an đầu thú; bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có hoàn cảnh gia đình khó khăn; người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên được Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại cháu Nguyễn Thị Yến N và người đại diện hợp pháp người bị hại cháu Nguyễn Thị Yến N là ông Nguyễn Khắc H và bà Nguyễn Thị T không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về vật chứng vụ án: Xét số vật chứng thu giữ trong quá trình điều tra gồm 01 (một) quần sọc kaki, màu xám, dài 30cm, trên ống quần bên trái có chữ PURPOSEFOUR; 01 (một) áo thun ngắn tay màu đen, dài 64cm, rộng 40cm, có sọc trắng và 01 (một) quần thun dài hiệu Adidas, màu đen, dài 82cm, lưng quần rộng 28cm, có sọc trắng bên hông quần hiện không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
2. Về hình phạt:
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 07/3/2019.
3. Về trách Nệm dân sự: Do các bên không ai có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về vật chứng vụ án:
Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 quần sooc kaki màu xám đã cũ; 01 áo thun ngắn tay màu đen có sọc trắng đã cũ và 01 quần thun dài hiệu Adidas màu đen đã cũ.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0001692, quyển số 0034, ký hiệu D47/2017 ngày 19/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Đ).
5. Về án phí hình sự sơ thẩm:
Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
6. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo; người bị hại; người đại diện hợp pháp của người bị hại; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 76/2019/HS-ST ngày 25/07/2019 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Số hiệu: | 76/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/07/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về