Bản án 76/2019/HSST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 76/2019/HSST NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12/6/2019, tại Hội trường Toà án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 76/2019/TLST-HS ngày 16/5/2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2019/QĐXXST-HS ngày 31/5/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Anh T (tên gọi khác: Không ), sinh năm 1983. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 5, phường Lương Châu, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Kim T và bà Nguyễn Thị Ngh; có vợ là Trần Thị L và 02 con chung, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án: Không; Tiền sự: 02, + Tại quyết định số 02/2017/QĐ-TA ngày 10/01/2017, Toà án nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh thái Nguyên áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Tuấn thời hạn 12 tháng.

+ Tại quyết định số 04/2019/QĐ-TA ngày 18/02/2019, Toà án nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh thái Nguyên áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Tuấn thời hạn 18 tháng. Bị cáo chưa chấp hành quyết định này.

Nhân thân:

+ Tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/HSST ngày 24/7/2002, Toà án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Tại bản án hình sự sơ thẩm số 23/HSST ngày 30/8/2004, Toà án nhân dân huyện (nay là thị xã) Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù giam về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

+ Tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2005/HSST ngày 31/3/2005, Toà án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Chuyển 9 tháng tù cho hưởng án treo bản án số18/HSST ngày 24/7/2002 của Toà án Sông Công thành 9 tháng tù giam. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn Anh T phải chịu hình phạt chung cho cả ba bản án là 36 tháng tù giam.

Bị cáo đã chấp hành xong bản án, đương nhiên được xoá án tích đối với cả ba bản án.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/3/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

* Người chứng kiến:

1. Ông Đồng Minh S, sinh năm: 1953; Trú tại: Xóm Trại, xã Tân Hương, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.

2. Anh Vũ Minh D, sinh năm: 1975; Trú tại: Xóm Thành Lập, xã Tân Hương, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 06/3/2019, tại khu vực đường dân sinh phía sau trường THPT Phổ Yên thuộc xóm Trại, xã Tân Hương, thị xã Phổ Yên,tỉnh Thái Nguyên, Tổ công tác của Công an thị xã Phổ Yên phát hiện Nguyễn Anh T đang cầm trong tay phải 01 (một) gói giấy màu trắng - xanh - hồng, bên trong có chứa chất rắn màu trắng đục và 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong có chứa 01 (một) viên nén màu hồng, theo T khai nhận số chất rắn màu trắng đục là chất ma túy lại Heroine và viên nén màu hồng là chất ma túy tổng hợp dạng hồng phiến, T mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Anh T, niêm phong vật chứng thu giữ và đưa về Cơ quan Công an thị xã Phổ Yên để giải quyết theo quy định.

Tại bản Kết luận giám định số 506/KL-PC09 ngày 12/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Chất rắn màu trắng đục trong mẫu M gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,176 gam; viên nén màu hồng trong mẫu N gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 0,104 gam.

Quá trình điều tra, Nguyễn Anh T khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 08 giờ ngày 06/3/2019, T đi xe buýt từ nhà đến khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên với mục đích mua ma túy về để sử dụng. Khi đến xóm Kim Tỉnh, T xuống xe đi bộ thì gặp một người nam giới (T không biết tên, tuổi và địa chỉ cụ thể của người này). Do trước đó được bạn nghiện chỉ nên T biết người nam giới có bán ma túy. T hỏi mua ma túy của người nam giới và đưa cho người này số tiền 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng). Người nam giới đồng ý cầm tiền của T và đưa cho T 01 (một) gói ma túy loại heroine được gói bên ngoài bằng mảnh giấy màu trắng - xanh - hồng và 01 (một) viên ma túy tổng hợp dạng hồng phiến được đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng. Mua được ma túy, T đi nhờ xe đến khu vực dân sinh phía sau trường THPT Phổ Yên để sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang. T đã tự nguyện giao nộp toàn bộ số ma túy vừa mua được.

Tại bản cáo trạng số 77/CT-VKSPY ngày 15/5/2019 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Nguyễn Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với vật chứng đã bị thu giữ.

Kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Anh T mức án từ 24 - 30 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu M ghi hoàn trả 0,164 gam mẫu M còn lại sau giám định vụ Nguyễn Anh T; 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu L ghi lưu kho vụ Nguyễn Anh T.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận nội dung truy tố là đúng. Lời nói cuối cùng, bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 06/3/2019, tại khu vực đường dân sinh phía sau trường THPT Phổ Yên thuộc xóm Trại, xã Tân Hương, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Anh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,28 gam ma tuý (gồm 0,176 gam Heroine; 0,104 gam Methamphetamine), mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an thị xã Phổ Yên phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi, ý thức của bị cáo đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 77/CT-VKS-MT ngày 15/5/2019 của Viện kiểm sát nhân nhân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Nội dung điểm i khoản 1 Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:...

c. Heroine, Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

i, Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này...”.

[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét các yếu tố về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về tiền sự : Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, đã hai lần bị Tòa án nhân dân thành phố Sông Công ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cụ thể: Năm 2007, Toà án nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh thái Nguyên áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng, tại quyết định số 02/2017/QĐ-TA ngày 10/01/2017; năm 2019, Toà án nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh thái Nguyên áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với T thời hạn 18 tháng, tại quyết định số 04/2019/QĐ-TA ngày 18/02/2019 ( Bị cáo chưa chấp hành quyết định này). Căn cứ khoản 2 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ngày 20/6/2012 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2013) thì bị cáo chưa chấp hành xong cả hai quyết định định áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định, do đó bị coi là có 02 tiền sự.

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, đã nhiều lần bị đưa ra xét xử bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật, cụ thể: Năm 2002, Toà án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/HSST ngày 24/7/2002( bị cáo đã chấp hành xong bản án). Năm 2004, Toà án nhân dân huyện (nay là thị xã) Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù giam về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 25.000đ cho người bị hại, tại bản án số 23/HSST ngày 30/8/2004 (đối với bản án này qua xác minh tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên xác định: bị cáo chưa bồi thường số tiền trên cho người bị hại, và trong thời hiệu yêu cầu thi hành án thì người bị hại cũng không có đơn yêu cầu thi hành án do đó về nghĩa vụ thi hành khoản tiền bồi thường trên đương nhiên không còn nên theo hướng có lợi cho bị cáo xác định bị cáo đương nhiên được xóa án tích). Năm 2005, Toà án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” (bị cáo đã chấp hành xong bản án đương nhiên được xóa án tích).

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Khi lượng hình Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người có nhận thức xã hội, hiểu biết được tác hại của ma tuý, đã từng được đưa đi cai nghiện nhưng không quyết tâm từ bỏ mà ngày càng lún sâu vào tệ nạn xã hội. Ngoài ra, bị cáo từng nhiều lần bị xử lý hình sự về hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng không có ý thức bồi thường cho người hại theo quyết định của bản án, mặc dù đã được xoá án tích, nhưng đánh giá bị cáo là người có ý thức chấp hành pháp luật kém. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tù giam, buộc bị cáo cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là nhẹ, chưa đảm bảo được tính răn đe đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, phạm tội không mang tính chất vụ lợi nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo

[7] Về vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định và các bao bì kèm theo là vật Nhà nước cấm lưu hành, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của T, theo Tuấn khai mua của một người nam giới tại khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên. T không biết họ tên, tuổi và địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ đề nghị xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: bị cáo Nguyễn Anh T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/3/2019.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Anh T 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu M ghi hoàn trả 0,164 gam mẫu M còn lại sau giám định vụ Nguyễn Anh Tuấn; 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu L ghi lưu kho vụ Nguyễn Anh T.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Phổ Yên và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên ngày 15/5/2019).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Anh T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 76/2019/HSST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;