Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 23/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 76/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 23 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 293/2019/TLST-HNGĐ, ngày 01 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp Hôn nhân và Gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 146/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 01 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 98/2019/QĐST, ngày 12 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: anh Hoàng Phi T - sinh năm 1989 Trú tại: xóm 7 - xã D - huyện D - tỉnh N Nghề nghiệp: Lao động tự do (có mặt)

- Bị đơn: chị Bùi Thị T - sinh năm 1990 Trú tại: xóm 9 - xã V - huyện Y - tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do (vắng mặt lần thứ hai)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn đề ngày 25/6/2019, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án anh Hoàng Phi T trình bày: anh và chị Bùi Thị T kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tìm hiểu, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn vào 05/7/2011, tại UBND xã D, huyện D, tỉnh N. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp. Khiến cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng và nặng nề. Chị T tự ý về ngoại ở để con nhỏ lại cho anh nuôi. Hai bên đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Anh xác định hai bên không còn tình cảm với nhau nữa, mục đích hôn nhân không đạt được chị yêu cầu tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Thược;

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Hoàng Phi T (giới tính nam) - sinh ngày 06/4/2012. Hiện nay con chung đang được anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, do chị T thiếu trách nhiệm với con nay ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con để có điều kiện chăm sóc tốt nhất cho con và không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn chị Bùi Thị T quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng chị T vẫn không có mặt. Tòa án đã trực tiếp tống đạt giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho chị T theo đúng quy định của pháp luật đồng thời lập biên bản tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho mẹ ruột của chị là bà Hoàng Thị N, bà N đã cam kết nhận trách nhiệm giao lại cho chị T nhưng chị T vẫn không có mặt, vì vậy Tòa án không tiến hành phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và cũng không lấy lời khai của chị Thược được.Tuy nhiên qua tài liệu do nguyên đơn cung cấp và qua biên bản xác minh tại xóm, xã V cũng như đơn xác nhận tại chi hội phụ nữ xóm 7, xã D thì tình trạng hôn nhân, con chung chưa thành niên giữa anh T và hcị T đúng như anh Thìn trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe ý kiến trình bày của anh T tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1.Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T, chị T, yêu cầu anh, chị có mặt tại Toà án để giải quyết vụ án nhưng chị T không có mặt. Vì vậy Toà án đã lập biên bản theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, làm cơ sở giải quyết vụ án.

Ngày 01/8/2019, Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên toà và đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 12/8/2019 anh T có mặt, chị T vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà. Để tiếp tục giải quyết vụ án, Toà án tiếp tục tống đạt các văn bản tố tụng phiên toà lần thứ hai cho các bên đương sự tuy nhiên tại phiên toà hôm nay anh Thìn có mặt, tiếp tục vắng mặt không có lý do. Như vậy, chị T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn.

2. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa anh T, chị T là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Song qua xem xét thực tế thì thấy rằng cuộc sống chung của vợ chồng thời gian qua không được hạnh phúc, mâu thuẫn thực sự căng thẳng và trầm trọng, hai bên đã sống ly thân thời gian dài (6 năm) không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Trên cở sở đó xác định tình cảm vợ chồng không còn gắn kết, mục đích hôn nhân không đạt được, việc anh T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với chị T là có căn cứ, cần chấp nhận.

- Về quan hệ con chung: Quá trình giải quyết vụ án anh T có nguyện vọng yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Việc nuôi con vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của các bên vì vậy nguyện vọng của anh T là nguyện vọng chính đáng cần xem xét.

Theo anh Thìn trình bày, hoàn cảnh hiện tại của chị T về điều kiện gần gũi và chăm sóc con chị T không đảm bảo bằng anh bởi lẽ từ nhỏ con ở với anh đã quen sự chăm sóc của anh. Hơn nữa hiên nay cháu Hoàng Phi T đang trong độ tuổi đến trường cần sự ổn định về tâm lý để tạo điều kiện tốt nhất cho cháu về cuộc sống sinh hoạt và học tập ; tại phiên tòa anh T trình bày anh đi làm thêm có thu nhập trung bình từ 4.000.000 - 5.000.000 đồng/tháng đủ trang trải cuộc sống cho bố con, hơn nữa bên cạnh anh còn có bố mẹ, người thân hỗ trợ cho bố con cả vật chất lẫn tinh thần vì vậy cần chấp nhận nguyện vọng của anh Thìn tiếp tục giao cho anh T nuôi dưỡng đến khi trưởng thành là phù hợp với tình hình thực tế cũng như quy định của pháp luật.

- Quan hệ tài sản: anh T không yêu cầu tòa án giải quyết nên miễn xét.

*Về án phí: anh T phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 28; khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51;56; 81; 82; 83 của Luật Hôn Nhân và Gia đình;

- Về hôn nhân: Xử cho anh Hoàng Phi T được ly hôn chị Bùi Thị T.

- Về con chung: Tiếp tục giao con chung là cháu Hoàng Phi T (giới tính nam) - sinh ngày 06/4/2012 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Thược đến khi có yêu cầu.

Chị Bùi Thị T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

- Án phí: Căn cứ vào khoản 4 điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 27 Nghị quyết 326 /2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

Buộc anh Hoàng Phi T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, án phí của anh T được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí mà anh đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành (Biên lai thu tiền số: 0003791, ngày 01 tháng 7 năm 2019), anh Thìn đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt anh Hoàng Phi T, vắng mặt chị Bùi Thị T. Tuyên bố để các bên đương sự biết, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 23/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:76/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;