Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 12/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 76/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 7 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 02 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc Â, sinh năm: 1987; Địa chỉ: ấp Hưng Bình, xã H, huyện G, tỉnh B.

- Bị đơn: Anh Đặng Văn T, sinh năm: 1983; Địa chỉ: ấp Hưng Bình, xã H, huyện G, tỉnh B.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 12/02/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Ngọc  trình bày:

Chị và bị đơn là anh Đặng Văn T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện G, tỉnh B vào ngày 16/6/2006. Vợ chồng cùng chung sống hạnh phúc chỉ có thời gian đầu. Từ khi có con, anh T thường xuyên nhậu nhẹt rồi về chưởi mắng đánh đập chị. Thấy các con còn nhỏ nên chị cố gắng chịu đựng để lo cho con nhưng càng ngày mâu thuẫn càng trở nên gay gắt. Thời gian gần đây, mâu thuẫn càng trở nên trầm trọng, anh T thường xuyên xúc phạm chị và đánh đập chị phải đi cấp cứu. Chị không thể chịu được nên chị và các con bỏ về nhà cha mẹ ruột chị sinh sống từ tháng 9/2017 cho đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn nữa nên chị có yêu cầu ly hôn với anh T.

Trong quá trình chung sống chị và anh T có 03 con chung là: Đặng Thị Mộng Nhớ, sinh ngày: 04/3/2007; Đặng Thị Thúy Ngân, sinh ngày: 28/9/2009 và cháu Đặng Tuấn Kiệt, sinh ngày: 11/11/2011 hiện do chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, chị có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung, chị yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị Ngọc  vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và yêu cầu được trực tiếp nuôi con, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đã thông báo và tổ chức các phiên hòa giải nhưng anh T đều vắng mặt không lý do.

Do không thể tiến hành hòa giải được, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đã đưa vụ án ra xét xử vào ngày 24 tháng 6 năm 2018, anh T cũng vắng mặt.

Tại phiên tòa sơ thẩm được mở lại vào ngày hôm nay nhưng anh T vắng mặt không lý do, chị Ngọc  có mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng: anh Đặng Văn T là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngọc  và anh T chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện G, tỉnh B vào ngày 16/6/2006 nên quan hệ hôn nhân của anh chị được coi là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Vợ chồng anh T và chị Ngọc  cùng chung sống với nhau ở ấp Hưng Bình, xã H, huyện G, tỉnh B. Trong quá trình chung sống, vợ chồng có hạnh phúc nhưng sau đó thì xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cải vã với nhau, thường hay bất hòa. Theo chị Ngọc  thì nguyên nhân chính là do anh T thường xuyên nhậu nhẹt, bê tha về nhà còn đánh đập chị, không quan tâm đến vợ con, nên chị đã đem các con về nhà cha mẹ ruột sinh sống vào năm 2017 cho đến nay, không có thời gian đoàn tụ.

Hội đồng xét xử xét thấy anh T và chị Ngọc  đã sống ly thân với nhau từ năm 2017, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, anh chị không còn quan tâm chăm sóc nhau như vợ như chồng. Do chị Ngọc  không còn tình cảm vợ chồng với anh T nữa nên chị có yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Tòa án đã tiến hành thông báo tổ chức phiên hòa giải với mục đích là hòa giải cho anh chị đoàn tụ. Tuy nhiên, anh T đã bỏ mặc không tham gia. Mặt khác, trong thời gian ly thân anh T cũng không quan tâm chăm sóc chị Ngọc  và con chung, không cùng cải thiện tình trạng hôn nhân hiện tại của anh chị để kéo dài đời sống chung mà anh đã bỏ mặc cho chị Ngọc  tự giải quyết. Tòa án đã động viên chị Ngọc  trở Thơ hàn gắn đoàn tụ nhưng chị Ngọc  vẫn cương quyết yêu cầu xin ly hôn với anh T.

Xét thấy tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ngọc  đối với anh T là phù hợp.

- Về con chung: Chị Ngọc  và anh T có 03 con chung là: Đặng Thị Mộng Nhớ, sinh ngày: 04/3/2007; Đặng Thị Thúy Ngân, sinh ngày: 28/9/2009 và cháu Đặng Tuấn Kiệt, sinh ngày: 11/11/2011. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị Ngọc  và anh T sống ly thân cho đến nay, chị Ngọc  là người trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung, chị vẫn đảm bảo quyền và lợi ích cho trẻ, các cháu do chị Ngọc  trực tiếp nuôi dưỡng đã ổn định. Mặt khác, cháu Mộng Nhớ, Thúy Ngân, Tuấn Kiệt đều trên 07 tuổi, Tòa án đã tiến hành lấy ý kiến của các cháu, cả 03 cháu đều có ý kiến nguyện vọng là tiếp tục sống với mẹ khi cha mẹ ly hôn tuổi, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình thì con dưới. Do đó, để đảm bảo cuộc sống ổn định và không nên làm xáo trộn về tâm lý của trẻ nên chấp nhận yêu cầu của chị Ngọc  được tiếp tục trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên là phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Đối với việc cấp dưỡng nuôi con, theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình thì người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, chị Ngọc  không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, xét thấy đây là sự tự nguyện của chị Ngọc Â, không trái với quy định pháp luật nên ghi nhận.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ngọc  khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

- Về án phí: Chị Ngọc  phải chịu án phí Hôn nhân gia đình là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Thơ quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chị Nguyễn Thị Ngọc  được ly hôn với anh Đặng Văn T.

2. Về con chung: Ghi nhận chị Nguyễn Thị Ngọc  và anh Đặng Văn T có 03 con chung là: cháu Đặng Thị Mộng Nhớ, sinh ngày: 04/3/2007; cháu Đặng Thị Thúy Ngân, sinh ngày: 28/9/2009 và cháu Đặng Tuấn Kiệt, sinh ngày: 11/11/2011.

Giao cả 03 con chung là các cháu Mộng Nhớ, Thúy Ngân và cháu Tuấn Kiệt cho chị Ngọc  tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung chưa thành niên. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con (Do chị Ngọc  không có yêu cầu).

Anh Đặng Văn T được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84, Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

4. Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Chị Nguyễn Thị Ngọc  phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Ngọc  đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000218 ngày 20 tháng 02 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm; chị Ngọc  đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày: Đối với nguyên đơn có mặt tại tòa thì kể từ ngày tuyên án; Đối với bị đơn vắng mặt tại tòa thì kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy Ban nhân dân xã nơi cư trú của bị đơn; có quyền kháng cáo đối với bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 12/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:76/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;