TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KON TUM, TỈNH KON TUM
BẢN ÁN 76/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ LY HÔN
Ngày 31 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 342/2018/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2018 về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy T, sinh năm 1998. (Có mặt). Địa chỉ: Thôn 1, thị trấn Sa T, huyện Sa T, tỉnh Kon Tum.
2. Bị đơn: Anh Trần Minh H, sinh năm 1991. (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số 83 Nguyễn Thiện T, phường Duy T, thành phố Kon T, tỉnhKon Tum.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/6/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thùy T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thùy T và anh Trần Minh H tự nguyện kết hôn và đã được Uỷ ban nhân dân phường Duy T, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 21/02/2017. Sau khi kết hôn, anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp nên thường xuyên xảy ra bất hòa.
Anh chị thường xuyên xảy ra cãi nhau, lớn tiếng. Anh H thường hay đi nhậu về chửi bới, xúc phạm chị T. Cuộc sống hôn nhân gia đình bức bối nên chị T đã nhiều lần cố gắng khuyên nhủ chồng và nhờ người thân hòa giải. Tuy nhiên, anh H vẫn tiếp tục xúc phạm, không tôn trọng chị T và gia đình chị. Từ ngày 20/8/2017, anh chị đã sống ly thân. Giữa anh chị cũng chưa có con chung nên tình cảm vợ chồng không gắn kết. Hiện nay, chị T đã về nhà mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc và thương yêu nhau nữa. Hiện tại, chị T cảm thấy không còn tình cảm với anh H nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.
Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có.
Bị đơn anh Trần Minh H đã được Tòa án thông báo, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn cố tình không đến tòa án để làm việc và vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Chị Nguyễn Thị Thùy T và anh Trần Minh H tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Duy T, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum vào ngày 21/02/2017 theo đúng quy định của pháp luật, không vi phạm điều kiện kết hôn. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thùy T và anh Trần Minh H là hôn nhân hợp pháp.
[2] Xét thấy sau khi kết hôn, anh chị chung sống với nhau được một thời gian ngắn nhưng đã phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do anh chị bất đồng về tính cách, quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra cãi nhau. Theo chị T trình bày, trong đời sống chung, anh H khi đi nhậu về còn chửi bới, xúc phạm, không tôn trọng vợ. Mặc dù chị T đã cố gắng khuyên nhủ chồng và nhờ người thân hòa giải nhưng anh H không thay đổi mà mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng.
[3] Tại phiên tòa hôm nay, chị Nguyễn Thị Thùy T khẳng định không còn tình cảm, thương yêu gì với anh Trần Minh H nên tha thiết xin được ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh H đã thực sự trầm trọng, dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ tháng 8/2017 đến nay. Điều đó chứng tỏ cuộc sống vợ chồng thời gian qua không có hạnh phúc, không còn thương yêu, quan tâm, chăm sóc cho nhau. Anh chị chỉ chung sống trong thời gian ngắn (khoảng 06 tháng) thì phát sinh mâu thuẫn. Tuy nhiên, anh chị lại có thời gian ly thân kéo dài. Như vậy, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Thùy T với anh Trần Minh H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về con chung, tài sản chung và nợ chung, do không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Đối với bị đơn anh Trần Minh H đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng của vụ án nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Như vậy, anh H đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.
[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thùy T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Chấp nhận đơn khởi kiện về việc “ly hôn” của chị Nguyễn Thị Thùy T, đơn đề ngày 15/6/2018.
Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 và Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Xử:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thùy T được ly hôn anh Trần Minh H.
Về án phí: Áp dụng khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 6, 18, 19, khoản 1 Điều 24, khoản 5, 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chị Nguyễn Thị Thùy T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0001522 ngày 15/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Kon Tum. Chị T đã nộp đủ án phí.
Căn cứ các Điều 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31-10-2018), nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án theo trình tự phúc thẩm. Riêng bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại UBND xã, phường nơi cư trú./.
Bản án 76/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về ly hôn
Số hiệu: | 76/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/10/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về