TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 754/2019/HS-PT NGÀY 01/10/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 01 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 642/2019/TLPT-HS ngày 10 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo Trần Văn D do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 181/2019/HS-ST ngày 23/07/2019 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội.
* Bị cáo có kháng cáo: TRẦN VĂN D, sinh ngày 12/3/19XX tại T H; ĐKHKTT và nơi cư trú: Xóm XX, xã N T, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; con ông Trần Văn T và bà Hồ Thị T; có vợ Lê Thị Hồng L và 01 con, sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Trung Tiệp và Ông Nguyễn Đức Năng - Luật sư Công ty luật TNHH DRAGON thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, có mặt Luật sư Nguyễn Trung Tiệp.
Ngoài ra còn có bị cáo Đặng Văn S không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị:
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Công ty bảo hiểm MIC thuộc Ngân hàng TMCP Quân đội thuê công nhân đến sửa chữa điện, nước tại tầng 15 tòa nhà Mipec số 229 Tây Sơn, phường Ngã Tư Sở, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Trong số công nhân này có Đặng Văn S và Trần Văn D. Khoảng 19 giờ ngày 13/12/2018, trong lúc sửa chữa, S đi vào phòng làm việc của chị Nguyễn Quỳnh A để tìm nước uống. Khi đến bàn làm việc của chị Quỳnh A, S phát hiện trong ngăn kéo tủ ở dưới bàn làm việc có 01 điện thoại Nokia 8800 màu vàng để trong bao da màu trắng. S đã lấy trộm chiếc điện thoại, sau đó tắt nguồn và cất vào túi quần phía trước bên phải rồi tiếp tục đi làm. Sau đó S mang điện thoại về phòng trọ. Đến ngày 20/12/2018 tại phòng trọ, S nói chuyện lấy trộm chiếc điện thoại với Trần Văn D và rủ D đi bán lấy tiền ăn tiêu, D đồng ý. S và D mang điện thoại đến số 124 Lạc Long Quân bán cho anh Hoàng Trọng M được 12.000.000 đồng. S cho D 2.000.000 đồng. Khi bán điện thoại, S đã tháo sim 096232XXXX và giữ lại để sử dụng. Ngày 09/01/2019 chồng chị Quỳnh A đã liên lạc và yêu cầu S, D đến Công an phường Ngã Tư Sở để làm việc. Tại đây, S, D đã đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.
Bản Kết luận định giá tài sản số 112/ĐGTS ngày 26/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản quận Đống Đa kết luận: Chiếc điện thoại Nokia 8800 trị giá 16.000.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 181/2019/HS-ST ngày 23 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Văn D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Văn D 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Ngoài ra bản án còn xử phạt bị cáo Đặng Thanh S 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”; tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo quy định của pháp luật.
Ngày 05/8/2019 bị cáo Trần Văn D có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã quy kết. Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo với lý do bị cáo là trụ cột trong gia đình; bà nội bị cáo là người có công với cách mạng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhân thân bị cáo, xem xét kháng cáo của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa một phần bản án sơ thẩm. Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Văn D 06 tháng tù cho hưởng án treo.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Văn D trình bày luận cứ bào chữa cho rằng bị cáo phạm tội với vai trò hỗ trợ, giúp sức về tinh thần cho bị cáo S tiêu thụ tài sản. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ: tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tích cực bồi thường cho bị hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, ra đầu thú; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bà nội là người có công với cách mạng. Luật sư đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự; áp dụng điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, xem xét cho bị cáo Trần Văn D mức án thấp nhất và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Văn D tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo Đặng Văn S, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, kết luận định giá tài sản, tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Ngày 20/12/2018, Trần Văn D biết rõ 01 điện thoại Nokia 8800 của chị Nguyễn Quỳnh Anh trị giá 16.000.000 đồng do Đặng Văn S trộm cắp mà có song đã có hành vi cùng S đi bán điện thoại và được hưởng lợi 2.000.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Văn D đã bị Toà án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Trần Văn D xin được hưởng án treo thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án; thái độ khai báo chưa thành khẩn; sau khi phạm tội đã ra đầu thú; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã bồi thường cho bị hại đã xử phạt 06 tháng tù đối với bị cáo Trần Văn D về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội là không cần thiết, bởi lẽ bản thân bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo phạm tội lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, hiện là lao động chính trong gia đình, con còn nhỏ, có bà nội là người có công với cách mạng; hơn nữa việc cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo mà không gây nguy hại cho xã hội.
Do vậy nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn D, cho bị cáo được hưởng biện pháp chấp hành án có điều kiện, được cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát và giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ để cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
[4] Bị cáo kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự,
1. Sửa một phần bản án sơ thẩm:
- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn D 06 (Sáu) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 01/10/2019 về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Giao bị cáo cho UBND xã N T, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí: bị cáo Trần Văn D không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Đặng Văn S, xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 754/2019/HS-PT ngày 01/10/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 754/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về