Bản án 75/2020/HSST ngày 21/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 75/2020/HSST NGÀY 21/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 67/2020//TLST- HS ngày 16 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Duy Th, sinh ngày 27-10-1979, tại: Xã V, huyện H, tỉnh Th.

Nơi cư trú: Thôn Th, xã V, huyện H, tỉnh Th; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn H (Đã chết) và bà Đinh Thị L, sinh năm 1943; có vợ là Vũ Thị L và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07-4-2020, đến ngày 10-4-2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình; bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Anh Đào Văn T, sinh năm 1980.

2. Anh Trần Văn T, sinh năm 1965.

Đều trú tại: Thôn Th, xã M, huyện H, tỉnh Th; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 40 phút ngày 07-4-2020, tại đoạn đường ĐT454 thuộc thôn T, xã M, huyện H, tỉnh Th; Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang bị cáo Bùi Duy Th có hành vi cất giấu tại túi quần bên phải phía sau đang mặc 01 gói ni lon màu đen, bên trong có 01 gói giấy màu trắng có dòng kẻ, chứa ma túy, loại Hêrôin có khối lượng là 0,1308 gam, mục đích để sử dụng. Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong gói ma túy trên trước sự chứng kiến của những người làm chứng là anh Đào Văn T và anh Trần Văn T. Ngoài ra, còn thu giữ của bị cáo Bùi Duy Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, đã qua sử dụng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo Bùi Duy Th, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình không quản lý, thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Bản kết luận giám định số 120/KLGĐ-PC09 ngày 07-4-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu gửi giám định thu giữ của Bùi Duy Th là ma túy loại Hêrôin, khối lượng là 0,1308 gam. Hêrôin STT 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số 69/CT-VKSHH ngày 14-7-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Bùi Duy Th ra trước Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Bị cáo Bùi Duy Th khai nhận: Do có hẹn từ trước với anh Đ là người cũng xã về việc góp tiền mua ma túy để sử dụng chung nên khoảng 11 giờ 05 phút ngày 07-4-2020, bị cáo một mình từ nhà đi nhờ xe máy của một người đàn ông đi đường, không quen biết đến khu vực ngã T, xã M, huyện H gặp anh Đ. Tại khu vực ngã T, xã M bị cáo đưa cho anh Đ 100.000đồng, anh Đ cầm tiền đi đâu đó một lúc sau quay lại đưa cho bị cáo một gói nilon màu đen, bị cáo biết đó là gói ma túy, loại hêrôin nên cầm cất giấu vào túi quần bên phải phía sau đang mặc. Sau đó anh Đ nhờ bị cáo đi mua xi lanh và nước cất để sử dụng ma túy, bị cáo đang đi thì bị Công an huyện Hưng Hà phát hiện, bị cáo đã tự nguyện lấy gói ma túy vừa mua được giao nộp cho Công an, ngay sau đó lực lượng Công an huyện Hưng Hà kiểm tra, thu giữ và niêm phong gói ma túy. Quá trình bị cáo đưa tiền cho anh Đ và anh Đ đưa gói ma túy cho bị cáo không có ai chứng kiến. Ngoài ra Công an huyện Hưng Hà còn thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, chiếc điện thoại bị cáo dùng để liên lạc với người thân trong gia đình, bạn bè, bị cáo không sử dụng để giao dịch mua ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt là HĐXX) trả lại cho bị cáo.

Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Bùi Duy Th như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng, đồng thời đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Bùi Duy Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Duy Th từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 07-4-2020; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Bùi Duy Th là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong phong bì số 120/KLGĐ- PC09 ngày 07-4-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; trả cho bị cáo Thiệm 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, đã qua sử dụng; bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhận thấy hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo là vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai của bị cáo Bùi Duy Th tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 12 giờ ngày 07-4-2020; Biên bản quản lý và niêm phong đồ vật tài liệu do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 13 giờ 55 phút ngày 07-4-2020 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện H, tỉnh Th; Bản kết luận giám định số 120/KLGĐ-PC09 ngày 07-4-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Lời khai của những người làm chứng: anh Đào Văn T và anh Trần Văn T. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 40 phút ngày 07-4- 2020, tại đoạn đường ĐT454 thuộc địa phận thôn Tư La, xã Minh Khai, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, bị cáo Bùi Duy Th đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1308 gam ma túy, loại Hêrôin, mục đích sử dụng, bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Bùi Duy Th đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Bùi Duy Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định t ại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

………………………..

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

......................................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, hủy hoại trực tiếp sức khỏe của chính bản thân bị cáo và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự; trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bố đẻ bị cáo được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến là người có công với cách mạng nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự.

[4] Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức rất rõ về tác hại của ma túy, về việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng...trái phép chất ma túy nhưng do nghiện ma túy, để thỏa mãn nhu cầu bản thân nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng, do đó cần phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[5] Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là người nghiện ma tuý, không có thu nhập ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà quản lý của bị cáo Bùi Duy Th sau khi giám định, số còn lại được niêm phong trong 01 phong bì số 120/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà thu của bị cáo Bùi Duy Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả cho bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy: Căn cứ vào lời khai của bị cáo Bùi Duy Th Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành điều tra, xác định: Tại thôn Th, xã V, huyện H, tỉnh Th có anh Vũ Quyết Đ, sinh năm 1982, ngày 07-4-2020 anh Đ ở nhà chăm sóc mẹ là bà Vũ Thị L, sinh năm 1952 bị ốm, anh Đ không đi đâu, không gặp bị cáo Th, không đưa ma túy cho cho bị cáo Th. Ngoài lời khai của bị cáo Th không còn tài liệu, chứng cứ nào khác xác định việc anh Đ đưa ma túy cho bị cáo Th nên không có căn cứ để xử lý đối với anh Vũ Quyết Đ trong vụ án này.

[8] Về án phí: Bị cáo Bùi Duy Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Duy Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Duy Th 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 07-4-2020.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

3.1. Tịch thu tiêu huỷ 0,0995 gam (Không phẩy không nghìn chín trăm chín mươi lăm gam) mẫu gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Bùi Duy Th trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 120/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình;

3.2. Trả cho bị cáo Bùi Duy Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, đã qua sử dụng.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15-7-2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án . Bị cáo Bùi Duy Th phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Bùi Duy Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 75/2020/HSST ngày 21/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:75/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;