Bản án 75/2019/HSST ngày 25/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 75/2019/HSST NGÀY 25/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 74/2019//TLST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Vũ Văn T, sinh ngày 16-7-1987, tại: Xã V, huyện H, tỉnh T.

Nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện H, tỉnh T; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Tiến Đ và bà Vũ Thị L; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 38/2010/HSST ngày 09-11-2010 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt Vũ Văn T 15 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; bản án số 105/2013/HSST ngày 22-8-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt Vũ Văn T 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 12-10-2015, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05-6-2019 đến ngày 08-6-2019 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình; bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Ông Vũ Văn Đ, sinh năm 1958 Nơi cư trú: Thôn D, xã T, huyện H, tỉnh T;

2. Anh Trần Xuân H, sinh năm 1986 Nơi cư trú: Thôn D, xã T, huyện H, tỉnh T;

3. Anh Bùi Duy T, sinh năm 1979 Nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện H, tỉnh T (Ông Đ, anh H và anh T đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 11 giờ 30 phút ngày 05-6-2019, tại đoạn đường ĐH 453 thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện H, tỉnh T, Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang bị cáo Vũ Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Khi bị kiểm tra, bị cáo T đã thả từ lòng bàn tay trái xuống đất ngay sát vị trí bị cáo T đứng 01 gói giấy tráng kim màu trắng. Công an huyện Hưng Hà yêu cầu bị cáo T nhặt gói giấy tráng kim lên, kiểm tra bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, bị cáo T khai nhận đó là ma túy (Hêrôin), cất giấu với mục đích để sử dụng. Công an huyện Hưng Hà đã tiến hành niêm phong gói giấy tráng kim trên trước sự chứng kiến của anh Vũ Văn Đ và anh Trần Xuân H. Ngoài ra Công an huyện Hưng Hà còn quản lý của bị cáo Vũ Văn T 02 chiếc xi lanh chưa qua sử dụng và 01 chiếc xe máy kiểu dáng xe DREAM không đeo biển kiểm soát.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo Vũ Văn T, Cơ quan điều tra không thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Bn kết luận giám định số 214/KLGĐ-PC09 ngày 06-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin) có khối lượng 0,1707 gam (Không phẩy một nghìn bảy trăm linh bảy gam). Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số 76/CT-VKSHH ngày 24-9-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Vũ Văn T ra trước Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Vũ Văn T khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 05-6-2019, tại khu vực cánh đồng gần cầu T, thuộc địa phận huyện V, tỉnh T, bị cáo rủ anh T (là người cùng thôn và cùng gặt thuê cho anh D) đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng, anh T đồng ý. Sau đó bị cáo chở anh T bằng xe máy DREAM không biển kiểm soát do bị cáo mượn của anh D lên thị trấn H, huyện H, tỉnh T. Khi đi đến cây xăng thuộc địa phận thị trấn H, bị cáo dừng xe và bảo anh T đứng đợi. Bị cáo đi vào một ngõ nhỏ gặp và mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ) 01 gói ma túy với giá 100.000đồng, bị cáo cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái. Sau đó, bị cáo điều khiển xe quay lại đón anh T và đi tìm nơi sử dụng, trên đường đi bị cáo dừng xe tại khu vực thôn T , xã T, huyện H, để anh T ở ngoài ven đường, một mình bị cáo vào tiệm thuốc tây mua xi lanh, vừa mua xi lanh xong thì bị Công an huyện Hưng Hà kiểm tra, thu giữ và quản lý 01 gói ma túy, 02 xi lanh chưa qua sử dụng, 01 xe máy dạng xe DREAM không biển kiểm soát đã cũ. Khi mượn xe, bị cáo không nói cho anh D biết việc bị cáo mượn xe máy để đi mua ma túy; anh T được bị cáo rủ đi mua ma túy nhưng anh T không góp tiền, không biết bị cáo mua ma túy của ai và mua ở đâu. Bị cáo nhận thấy hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo là vi phạm pháp luật.

Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Vũ Văn T như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 05-6-2019; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Vũ Văn T là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong phong bì số 214/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và 02 xi lanh chưa qua sử dụng; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật .

Bị cáo T không có ý kiến tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai của bị cáo Vũ Văn T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 11 giờ 50 phút ngày 05-6-2019 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh T; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi lập hồi 13 giờ 25 phút ngày 05- 6-2019 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh T; bản kết luận giám định số 214/KLGĐ- PC09 ngày 06-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; lời khai của những người làm chứng: Anh Bùi Duy T, anh Trần Xuân H và ông Vũ Văn Đ. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 30 phút ngày 05-6-2019, tại đoạn đường ĐH 453 thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện H, tỉnh T, bị cáo Vũ Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1707gam ma túy, loại Hêrôin, mục đích để sử dụng, bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Vũ Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà truy tố bị cáo Vũ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

......................................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, hủy hoại trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự; trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có nhân thân xấu, đã 02 lần phải chấp hành hình phạt tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bản thân bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức rất rõ về tác hại của ma túy, về việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng...trái phép chất ma túy nhưng do nghiện ma túy nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội nghiêm trọng do cố ý, do đó cần phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[5] Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý của bị cáo Vũ Văn T sau khi giám định, số còn lại được niêm phong trong phong bì số 214/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và 02 xi lanh chưa qua sử dụng; về chiếc xe máy kiểu dáng xe DREAM, không đeo biển kiểm soát quản lý của Vũ Văn T, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nguồn gốc chiếc xe nên đã tách ra để tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp quy định của pháp luật.

[7] Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của bị cáo Vũ Văn T vào ngày 05-6- 2019, bị cáo T khai mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể với giá 100.000 đồng tại khu vực thị trấn H, huyện H, tỉnh T, việc mua bán không có ai biết, ngoài lời khai của bị cáo, không có tài liệu, chứng cứ nào khác nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình không có căn cứ để điều tra, xử lý trong vụ án này.

[8] Đối với anh Bùi Duy T là người đi mua ma túy cùng bị cáo T vào ngày 05-6-2019 mục đích để sử dụng. Kết quả điều tra xác định anh T không góp tiền, không biết bị cáo T mua ma túy của ai và mua ở đâu nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình không xử lý đối với anh T là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo Vũ Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Văn T 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 05-6-2019.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu để tiêu huỷ 0,1529 gam (Không phẩy một nghìn năm trăm hai mươi chín gam) mẫu gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Vũ Văn T trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 214/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình và 02 xi lanh chưa qua sử dụng.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24-9-2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Vũ Văn T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 75/2019/HSST ngày 25/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:75/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;