Bản án 75/2019/HSST ngày 25/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 75/2019/HSST NGÀY 25/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 29/2019/HSST ngày 11/01/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1121/2019/QĐXXST-HS ngày 12/3/2019 đối với các bị cáo:

1. Võ Anh P, sinh năm 1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: Số 63/1 tổ 18, Khu phố 1, thị trấn H, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 5/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Anh Q và bà Phan Thị Thu H; chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: Tại bản án số 140/2012/HSST ngày 26/6/2012 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” và 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt chung của cả 02 tội là 06 năm tù; chấp hành xong hình phạt vào tháng 02/2017, đã thi hành xong phần án phí, riêng tiền bồi thường thiết hại do bị hại không có đơn yêu cầu thi hành án nên cơ quan thi hành án chưa thụ lý hồ sơ; nhân thân: Tại bản án số 66/2009/HSST ngày 19/10/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt vào tháng 6/2011, đã thi hành các quyết định khác. Bị bắt, tạm giam từ ngày 29/3/2018. (có mặt).

2. Trần Văn S, sinh năm 1988 tại Campuchia; nơi thường trú: Số 66/1 ấp H.L, xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số 160/6 N.T.T, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn L và bà Trần Thị N; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: từ năm 2005 đến 2007 bị Công an huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh bắt về tội “Trộm cắp tài sản”, UBND huyện Hóc Môn đưa vào Trường giáo dưỡng tại Cơ sở giáo dục tại tỉnh Đồng Nai với thời gian 18 tháng, đến tháng 3/2007 được về địa phương. Bị bắt, tạm giam từ ngày 29/3/2018. (có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Ngọc Trâm thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Võ Anh P. (có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Cháu Nguyễn Thị Phương N, sinh ngày: 15/01/2002; trú tại: 49A Bàu Giả, Tổ 1, Ấp 1, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 63/1 Tổ 18, Khu phố 1, thị trấn H, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Thị Phương N: Bà Bành Thị Thu H, sinh năm: 1982; chỗ ở: 49A Bàu Giả, Tổ 1, Ấp 1, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh là mẹ ruột của cháu N. (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bà Phan Thị Thu H, sinh năm: 1971; trú tại: 63/1 Khu phố 1, thị trấn H, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diển biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 00 giờ 30 phút ngày 29/3/2018, tại quán cà phê không tên số 29/2H ấp Đông Lân, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh, kiểm tra bắt quả tang Võ Anh P và Nguyễn Thị Phương N đang ngồi tại quán để chờ bán ma túy cho Trần Văn S. Thu giữ của P 01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,4681g, loại Methamphetamine ở dưới đất gần chỗ P đứng; 01 hộp giấy màu đen cam dưới kệ bàn cà phê chỗ P ngồi bên trong có 05 gói nylon chứa tinh thể không màu, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 34,5157g, loại Methamphetamine; 01 điện thoại di động và 01 xe máy hiệu Honda Wave biển số 51S1-8663. Thu giữ trong túi áo khoác bên trái Trần Văn S đang mặc có 05 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,3747g, loại Methamphetamine; 03 điện thoại di động; 01 cân tiểu ly và 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius biển số 52H6-0398. Thu giữ của N 01 điện thoại di động hiệu Iphone. (Toàn bộ số ma túy thu giữ được giám định theo Kết luận giám định số 665/KLGĐ -H ngày 05/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Võ Anh P và Trần Văn S không thu giữ được vật chứng là ma túy.

Ti cơ quan điều tra, Võ Anh P khai nhận: P và Nguyễn Thị Phương N quen biết và có tình cảm với nhau, đến tháng 02/2018 N bỏ nhà đến sống như vợ chồng với P tại nhà Số 63/1 tổ 18, khu phố 1, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh, P và N đều nghiện ma túy. Từ tháng 7/2017 đến ngày bị bắt, P đã nhiều lần mua ma túy đá của 01 người phụ nữ ở khu vực chợ Xóm Bắp, huyện Hóc Môn và bà Tám ở khu vực Quận 8 (không rõ lai lịch) để sử dụng và bán lại cho người nghiện kiếm lời. Tối ngày 28/3/2018, P đi cùng với N qua khu vực đường Mỹ Vạn, Quận 8, để N ngồi ở quán nước đầu hẻm chờ, còn P đi vào gặp bà Tám (không rõ lai lịch) mua 01 gói ma túy đá với giá 5.000.000 đồng, mua xong P đưa cho N cầm rồi chở N về. Khi cả hai về đến thị trấn Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh thì ghé ăn hủ tiếu, lúc này Trần Văn S nhắn tin cho P hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 1.300.000 đồng, P đồng ý và hẹn giao ma túy tại quán cà phê số 29/2H ấp Đông Lân, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó P chở N về nhà, để N đứng dưới cổng nhà chờ còn P 01 mình lên phòng, phân chia số ma túy mua được thành 05 gói nhỏ và 01 gói lớn. P cầm 01 gói nhỏ ma túy đá để bán cho S, còn lại 05 gói thì P bỏ lại vào hộp giấy màu đen cam xuống đưa cho N cầm và chở N đến điểm hẹn. Tại đây, N để hộp giấy màu đen cam chứa ma túy dưới hộc bàn cà phê rồi lấy nón bảo hiểm đậy lên trên. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 29/3/2018, Trần Văn S vừa đến quán cà phê để mua ma túy của P thì bị khám xét bắt quả tang, thu giữ ma túy như đã nêu trên. Ngoài ra, P còn khai trước đó P có bán ma túy cho S hai lần, lần 1 cách ngày bị bắt 9 ngày bán cho S 01 gói ma túy giá 700.000 đồng; lần 2 cách ngày bị bắt 4 ngày bán cho S 01 gói ma túy với giá 1.300.000 đồng, phù hợp với lời khai của S.

Nguyn Thị Phương N khai nhận quá trình sống chung với P, N biết P mua bán ma túy, mọi việc mua và phân chia ma túy đều do P thực hiện, thỉnh thoảng P đi bán ma túy cho người nghiện thì có chở N theo chơi và P một mình giao dịch mua bán với khách. Tối ngày 28/3/2018 khi biết P đi mua ma túy ở Quận 8, N có xin đi theo chơi nhưng P là người trực tiếp giao dịch mua ma túy và bán lại cho Trần Văn S, N có giúp P cầm hộp giấy màu đen cam đựng ma túy từ lúc P mua ở Quận 8 đem về nhà P và đem đến quán cà phê để bán cho S.

Trần Văn S khai nhận bản thân sử dụng ma túy từ đầu năm 2018 và bắt đầu mua bán ma túy khoảng hơn 01 tuần trước ngày bị bắt. S thường mua ma túy tại khu vực ngã tư An Sương hoặc mua ma túy của P để vừa sử dụng và bán lại cho người nghiện kiếm lời. Khoảng hơn 23 giờ ngày 28/3/2018, S nhắn tin cho P hỏi đặt mua 01 gói ma túy đá với giá 1.300.000 đồng, P đồng ý và hẹn giao ma túy cho S tại quán cà phê không tên tại số 29/2H ấp Đông Lân, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. S đến điểm hẹn nhưng không gặp P nên S chạy đến khu vực ngã tư An Sương mua của 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) 05 gói ma túy đá với giá 1.000.000 đồng rồi cất giấu trong túi áo khoác bên trái S đang mặc. Sau đó S quay lại điểm hẹn để gặp P, khi vừa đến quán cà phê thì bị bắt như đã nêu trên. Ngoài lần bị bắt, S đã mua ma túy đá của P 02 lần giá từ 700.000 đồng đến 1.300.000 đồng, đem về để vừa sử dụng và bán cho người nghiện tên Đào Hồng Tươi 02 lần, mỗi lần 01 gói ma túy đá với giá 500.000 đồng. Lời khai của P, S và Tươi phù hợp với nhau.

Ngày 5/4/2018, quá trình ghi lời khai có ghi âm, ghi hình của Cơ quan CSĐT (PC47) Công an thành phố Hồ Chí Minh và sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình ghi lời khai Võ Anh P và Nguyễn Thị Phương N thay đổi lời khai, P khai N không biết và không tham gia mua bán ma túy với P, sáng ngày 29/3/2018 khi đến quán cà phê 29/2H ấp Đông Lân, xã Bà Điểm thì P là người cầm hộp giấy màu đen cam chứa 05 gói ma túy đá vào quán cà phê để dưới kệ bàn cà phê và P cũng là người lấy nón bảo hiểm đậy lên hộp giấy chứa ma túy. Lúc đầu N khai nhận N là người cầm hộp giấy chứa ma túy vào quán cà phê để dưới kệ bàn cà phê rối lấy nón bảo hiểm đậy lên, sau đó khi cho P và N đối chất thì N thay đổi lời khai, P là người cầm hộp giấy chứa ma túy chứ không phải N. Đối với Nguyễn Thị Phương N là người chưa thành niên tính tới thời điểm bị bắt N mới chỉ được (16 tuổi, 2 tháng, 9 ngày). Tại Cơ quan điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh P và N đều thay đổi lời khai, cả hai đều khai N chỉ đi theo P chơi, N không có tham gia mua bán ma túy với P. Xét chưa đủ chứng cứ vững chắc để xử lý đối với Nguyễn Thị Phương N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nên ngày 14/6/208, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định hủy bỏ Quyết định khởi tố bị can số 21/QĐ-VKS-P1 đối với Nguyễn Thị Phương N.

Ti bản Cáo trạng số 372/CTr-VKS-P1 ngày 13/9/2018, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Võ Anh P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; bị cáo Trần Văn S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ti phiên tòa hôm nay, các bị cáo Võ Anh P, Trần Văn Sướng khai về nội dung sự việc, diễn biến các hành vi như nội dung bản cáo trạng nêu là đúng, các bị cáo nhận tội và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích lời khai của các bị cáo, cùng với các tình tiết, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Võ Anh P và Trần Văn S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt Võ Anh P từ 15 năm 16 năm tù; buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 15.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Trần Văn S từ 07 năm 08 năm tù, buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng để sung ngân sách nhà nước.

Đồng thời đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Võ Anh P thống nhất với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, mới học hết lớp 5 nhận thức pháp luật hạn chế, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, cha bị cáo và bà nội bị cáo đã mất; số ma túy đã bị thu giữ chưa phát tán ra cộng đồng; án tích trước đó của bị cáo chưa được xóa do phía bị hại chưa yêu cầu thi hành án phần dân sự chứ không phải do bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức hình phạt dưới mức mà Viện kiểm sát đề nghị, về phần xử lý vật chứng thì cho mẹ bị cáo được nhận lại chiếc xe gắn máy để có phương tiện đi lại. Về các vấn đề liên quan đến đương sự Nguyễn Thị Phương N nếu thấy cần thiết thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Bị cáo Võ Anh P đồng ý với lời bào chữa của luật sư, không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Trần Văn S không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Trong phần đối đáp, đại diện Viện kiểm sát cho rằng vị Luật sư bào chữa cho bị cáo P thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng, chỉ nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Viện kiểm sát không tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình. Về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung với hành vi của Nguyễn Thị Phương N là không cần thiết vì trước đó Tòa án đã trả hồ sơ điều tra bổ sung về nội dung này rồi và Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như bản cáo trạng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, luật sư.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Võ Anh P và Trần Văn Sướng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Luật sư bào chữa cho bị cáo Võ Anh P không có ý kiến về quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, các bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Võ Anh P, Trần Văn Sướng khai nhận những hành vi sai trái do các bị cáo gây ra như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, vật chứng thu giữ, kết luận giám định,… nên đã có đủ căn cứ xác định: Do nghiện ma túy và để có tiền mua ma túy sử dụng, tối ngày 28/3/2018 Võ Anh P dùng xe mô tô biển số 51S1-8663 chở Nguyễn Thị Phương N đến đường Mỹ Vạn, Quận 8 thì bảo N ngồi ở quán nước đầu hẻm chờ còn P đi vào gặp bà Tám (không rõ lai lịch) mua 36,9838 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine với giá 5.000.000 đồng để đem về sử dụng và bán lại kiếm lời. Sau khi được Trần Văn S nhắn tin hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 1.3000.000 đồng thì P đồng ý và hẹn giao ma túy tại quán cà phê số 29/2H ấp Đông Lân, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn. P chở N về nhà và để N đứng dưới cổng chờ còn P lên phòng phân chia số ma túy mới mua được thành 05 gói nhỏ và 01 gói lớn. Đến khoảng 00 giờ ngày 29/3/2018 P chở N đến điểm hẹn, lúc P đang chuẩn bị giao ma túy cho Sướng thì cả ba bị bắt quả tang cùng tang vật, thu giữ của Võ Anh P 36,9838 gam ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, thu giữ của Trần Văn S 01,3747 gam ma túy Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 665/KLGĐ-H ngày 05/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Ngoài ra lần phạm tội này, Võ Anh P còn khai nhận trước đó đã bán ma túy cho bị cáo Trần Văn S 02 lần với số tiền 2.000.000 đồng; Trần Văn S cũng khai nhận đã 02 lần mua ma túy của P rồi đem về sử dụng và bán lại cho Đào Hồng Tươi 02 lần với số tiền 1.000.000 đồng phù hợp với lời khai của Đào Hông Tươi. Do không xác định được khối lượng ma túy mua bán nên Võ Anh P chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự với khối lượng ma túy ở thể rắn mua bán bị thu giữ là 36,9838 gam Methamphetamine, Trần Văn S phải chịu trách nhiệm hình sự với khối lượng ma túy mua bán thuộc trường hợp phạm tội từ 02 lần trở lên, trong đó hai lần đã mua của P và khu vực ngã tư An Sương về bán lại cho Đào Hồng Tươi, lần thứ 3 S đặt mua của P, nhưng chưa kịp giao nhận thì bị bắt giữ và còn bị khám xét thu giữ là 01,3747 gam Methamphetamine ma túy đã mua trước đó.

Với các hành vi trên, xét đã có đủ cơ sở để tuyên bố bị cáo Võ Anh P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251; bị cáo Trần Văn S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 như bản cáo trạng truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn xâm hại trực tiếp đến trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho tệ nạn ma túy gia tăng. Các bị cáo biết rất rõ ma túy là một tệ nạn xã hội nguy hiểm, không chỉ hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân lây lan, phát triển căn bệnh HIV-AIDS, mà còn là nguồn gốc phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác nhưng vì muốn thu lợi bất chính nên đã cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, cần thiết phải áp dụng tội danh và hình phạt của điều luật truy tố quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự để xử phạt đối với mỗi bị cáo với mức án tương xứng thì mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Đồng thời, áp dụng khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự phạt bổ sung các bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước.

[4] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo Võ Anh P có 02 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội hai lần trở lên và tái phạm được quy định tại điểm g và h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo Trần Văn Sướng không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nên giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu.

Đối với Nguyễn Thị Phương N là người chưa thành niên (tính đến ngày bị bắt mới 16 tuổi, 02 tháng, 09 ngày). Lời khai ban đầu N thừa nhận biết bị cáo P mua bán ma túy và được bị cáo P thừa nhận, tuy nhiên sau đó N và P thay đổi lời khai là N không biết P mua bán ma túy, chỉ đi theo P chơi và do quá trình lấy lời khai của N không thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Ngày 14/6/2018 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can số 21/QĐ-VKS-P1 đối với Nguyễn Thị Phương N vì xét thấy chưa đủ chứng cứ vững chắc để xử lý N về tội mua bán trái phép chất ma túy. Sau đó Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung xem xét hành vi của N có dấu hiệu đồng phạm với P về tội mua bán trái phép chất ma túy, nhưng Viện kiểm sát nhân dân thành phố vẫn giữ nguyên cáo trạng. Do giới hạn của việc xét xử nên Hội đồng xét xử kiến nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét.

Đối với Đào Hồng Tươi là người 02 lần mua ma túy của Sướng về sử dụng và đã sử dụng hết, không thu giữ được ma túy nên không có căn cứ để xử lý hình sự, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố đã có thông báo về địa phương để quản lý giáo dục Tươi về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp với quy định pháp luật.

Đối với bà Tám và người phụ nữ ở khu vực Xóm Bắp, huyện Hóc Môn là 02 đối tượng bán ma túy cho P, do P khai không rõ lai lịch nên cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và các vật chứng gồm: hộp giấy màu cam đen; áo khác màu đen, biển số xe 52H6-0398 là biển giả không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với điện thoại di động hiệu Masstel, hiệu HTC, hiệu Nokia màu đen, cân tiểu ly thu giữ của các bị cáo là phương tiện, công cụ các bị cáo dùng vào việc phạm tội và còn giá trị nên áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone thu giữ của Nguyễn Thị Phương N không phải là tài sản do phạm tội mà có và không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên trả lại cho Nguyễn Thị Phương N.

- Đối với xe hai bánh gắn máy biển số 51S1-8663 thu giữ của Võ Anh P, qua xác minh là của ông Đoàn Lê Tuấn mua năm 2001, sau đó đã bán lại không nhớ tên người mua. Bà Trần Mỹ Tiên là chủ cửa hàng cầm đồ khai mua lại xe này của ông Tuấn năm 2017, đến tháng 3/2017, bà bán xe này lại cho bà Phan Thị Thu Hồng là mẹ của Võ Anh P. Bà Hồng khai không biết P lấy xe sử dụng vào việc phạm tội và có đơn xin nhận lại xe nên trả lại xe này cho bà Phan Thị Thu Hồng.

- Đối với xe hai bánh gắn máy biển số 52H6-0398 thu giữ của Trần Văn S, qua xác minh xe có biển số thật là 70L5-1681 do ông Phạm Quốc Dinh đứng tên. Ngày 06/02/2017 xe bị trộm và ông Dinh có báo công an địa phương và là tang vật trong vụ án hình sự do công an huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh đang thụ lý giải quyết nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an Thành phố Hồ Chí Minh đã bàn giao cho do công an huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xử lý theo thẩm quyền nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Anh P và Trần Văn Sướng phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”;

1. Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5, Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Võ Anh P 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/3/2018.

Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Trần Văn S 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/3/2018.

Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung ngân sách nhà nước.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 03 gói ma túy còn lại sau giám định, đã được niêm phong bên ngoài đánh số 665/18 gói (1,2,3) có chữ ký của GĐV Đại úy Trần Đình Hải và ĐTV Bành Trọng Hữu; 01 hộp giấy màu cam – đen, 01 áo khác màu đen; 01 biển số xe: 52H6-0398.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 04 điện thoại di động: HTC (bể Camera sau); Masstel màu xanh có số Imei 1: 352121081361345, Imei 2: 352121081361352 (tem bong tróc); Nokia màu đen có số Imei: 353693/05/220049/5; Nokia màu đen có số Imei: 358253/04/812016/9 và 01 cân tiểu ly.

- Trả lại cho bà Phan Thị Thu Hồng: 01 xe hai bánh gắn máy biển số 51S1-8663, số loại: không xác định; số khung: NF100M-0012278, số máy NF100ME-0012278.

- Trả lại cho Nguyễn Thị Phương N: 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số IMEI: 359235062093942.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 422/18 ngày 20/9/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

c bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 75/2019/HSST ngày 25/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:75/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;