Bản án 75/2019/HS-ST ngày 11/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 75/2019/HS-ST NGÀY 11/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Trung H (tên gọi khác: P), sinh ngày 19 tháng 8 năm 1970 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số x, khu N, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đặng Sinh H1 và bà Lô Phùng K; vợ: Có hai vợ là Nguyễn Hồng V, Nông Tố U đều đã ly hôn; con: Có 02 con, con thứ hai đã chết; tiền án: Có một tiền án, tại Bản án số 195/2016/HSST, ngày 16/11/2016 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội tuyên phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 12/01/2018 chưa được xóa án tích, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 22/02/1995 và 04/01/1999 bị Công an huyện Cao Lộc xử phạt hành chính về hành vi cố ý gây thương tích, đã thi hành xong. Ngày 18/5/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn tuyên phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bản án số 29/2010/HSST, đã chấp hành xong; bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc từ ngày 01/5/2019 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Đặng Thị Đ, sinh năm 1988; cư trú tại: Số x, khu s, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Trịnh Văn T; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 30 phút ngày 01/5/2019, Tổ công tác Công an huyện Cao Lộc đang làm nhiệm vụ tại khu vực khối c, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn thì phát hiện một người đàn ông đi bộ vào nhà nghỉ B L có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, người đàn ông tự khai nhận họ tên là Đặng Trung H, sinh năm 19xx, trú tại: Số x, khu N, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, phát hiện trên tay Đặng Trung H đang cầm số đồ vật gồm: 01 túi nilon bên trong có chứa 15 viên nén màu vàng cam (nghi là ma túy); 02 túi nilon có chứa các hạt tinh thể màu trắng (nghi là ma túy); 02 gói nhỏ màu vàng cam bên ngoài có dòng chữ “I am OK”, bên trong có chứa chất bột (nghi là ma túy). Tổ công tác đã đưa đối tượng cùng tang vật về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Bản Kết luận giám định số 165/KL-PC09 ngày 04/5/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

- 15 viên nén màu vàng cam gửi giám định đều là chất ma túy MDMA có tổng khối lượng 4,599 gam (đã trừ bì).

- Các hạt tinh thể màu trắng có trong 02 túi nilon nhỏ gửi giám định đều là chất ma túy Ketamine có tổng khối lượng 1,830 gam (đã trừ bì).

- Chất bột có trong 02 gói nhỏ màu vàng cam bên ngoài có in dòng chữ “I am Ok” gửi giám định là chất ma túy MDMA có tổng khối lượng 2,340 gam (đã trừ bì).

Xét thấy có dấu hiệu tội phạm, ngày 03/5/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh tạm giam đối với Đặng Trung H để điều tra làm rõ.

Tại Cơ quan điều tra Đặng Trung H khai nhận: Từ tháng 01/2019 đến ngày bị bắt, do không có việc làm ổn định nên Đặng Trung H nảy sinh ý bán ma túy để kiếm lời. Trong một lần đi hát karaoke, Đặng Trung H gặp và quen Hà Kiều A, khoảng 27 tuổi (không rõ địa chỉ) là người thường xuyên bán ma túy ở khu vực thị trấn Đ, huyện C. Đặng Trung H đã nhiều lần mua ma túy của Hà Kiều A mang về bán cho những người nghiện khác kiếm lời, cụ thể: Bán cho người phụ nữ tên H và người đàn ông tên C cùng trú tại: Số xx, đường Ph, phường H, thành phố L khoảng 10 lần, mỗi lần từ 03 đến 10 viên thuốc lắc (Kẹo), từ 02 đến 03 gam Ketamine, lần bán gần nhất cho C là vào ngày 30/4/2019 gồm 03 gam Ketamine và 08 viên thuốc lắc với giá 10.300.000 đồng; bán cho T (không rõ họ, địa chỉ) là nhân viên quán hát khoảng 10 lần, mỗi lần từ 01 viên thuốc lắc, 01 gam Ketamine trở lên; bán cho Tr (không rõ họ, địa chỉ) 01 lần, do thời gian lâu nên không nhớ số lượng và thời gian cụ thể.

Khoảng 14 giờ ngày 01/5/2019, Đặng Trung H được 01 người phụ nữ (không rõ họ tên, địa chỉ) đặt vấn đề mua 15 viên thuốc lắc, 02 gam Ketamine và 02 túi trà (tất cả đều là ma túy tổng hợp). Đặng Trung H đồng ý và báo giá của 03 loại ma túy trên là 14.250.000 đồng. Sau đó, Đặng Trung H đi taxi về thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn gặp và mua của Hà Kiều A số ma túy trên với giá 12.850.000 đồng. Khi Đặng Trung H mang số ma túy trên đến nhà nghỉ B L ở khối s, xã H, huyện C để giao ma túy thì bị phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật.

Lời khai nhận của Đặng Trung H phù hợp lời khai của người chứng kiến, người liên quan, với các tài liệu chứng cứ khác trong quá trình điều tra.

Đối với các đối tượng mua ma túy của Đặng Trung H, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được. Ngoài lời khai của Đặng Trung H thì không có tài liệu chứng cứ nào khác.

Vật chứng bị thu giữ, gồm: 01 túi nilon bên trong có chứa 15 viên nén màu vàng cam; 02 túi nilon nhỏ bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng; 02 gói nhỏ màu vàng cam bên ngoài có in dòng chữ “I am OK” bên trong chứa chất bột; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung mặt trước màu đen, mặt sau màu nâu, loại màn hình cảm ứng, có số IMEL 352141102171119/01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, mặt sau màu hồng, có IMEL 352977095539188. Số vật chứng của vụ án Cơ quan điều tra Công an huyện Cao Lộc đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc để xử lý theo luật định.

Tại bản Cáo trạng số 72/CT-VKS, ngày 16 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Đặng Trung H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự - Tuyên bố bị cáo Đặng Trung H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 08 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, vì bị cáo không có nghề nghiệp và tài sản.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử:

 - Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong dán kín của Công an huyện Cao Lộc ghi chữ "QUẢ TANG ĐẶNG TRUNG H" (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh Hà, trợ lý giám định và hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có 01 (một) túi nilon cũ đựng 3,634 gam MDMA; 01 (một) túi nilon cũ đựng 1,683 gam Ketamine dạng tinh thể; 01 (một) gói giấy đựng 1,697 gam MDMA dạng bột.

- Tịch thu hóa giá, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE màu trắng mặt sau màu hồng, có số IMEL: 352977095539188.

- Trả lại cho bà Đặng Thị Đ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, mặt trước màu đen, mặt sau màu nâu, loại màn hình cảm ứng, có số IMEL: 3521411021711xx/xx, xác định đây là tài sản của bà Đặng Thị Đ.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo thể hiện ăn năn hối hận về việc làm của bản thân, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo phù hợp với các chứng cứ khác và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Đặng Trung H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 01/5/2019, Tổ công tác Công an huyện Cao Lộc làm nhiệm vụ tại khối s, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn phát hiện, bắt quả tang Đặng Trung H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trên tay của Đặng Trung H 15 viên nén màu vàng cam và 02 gói nhỏ màu vàng cam bên ngoài có dòng chữ “I am Ok” đều là chất ma túy MDMA có tổng khối lượng 6,939 gam; 02 túi nilon có chứa các hạt tinh thể màu trắng là chất ma túy Ketamine có tổng khối lượng 1,830 gam. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đặng Trung H khai mua số ma túy trên của một người phụ nữ tên là Hà Kiều A ở thị trấn Đ, huyện C, khi mang số ma túy trên đến nhà nghỉ B L ở khối s, xã H, huyện C mục đích là để bán cho khách thì bị phát hiện bắt giữ. Ngoài ra bị cáo Đặng Trung H còn khai bị cáo bắt đầu bán ma túy từ tháng 01/2019 mục đích để kiếm lời, từ khi bán đến khi bị bắt quả tang đã bán cho người phụ nữ tên H và người đàn ông tên C cùng trú tại: Số xx, đường Ph, phường H, thành phố L khoảng 10 lần; bán cho T (không rõ họ, địa chỉ) là nhân viên quán hát khoảng 10 lần, mỗi lần từ 01 viên thuốc lắc, 01 gam Ketamine trở lên; bán cho Tr (không rõ họ, địa chỉ) 01 lần, không nhớ số lượng và thời gian. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Đặng Trung H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chính sách thống nhất quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an, gây hoang mang lo lắng, bất ổn cho nhân dân sinh sống trên địa bàn. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy bị pháp luật cấm nhưng mục đích để kiếm lời, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi của bị cáo gây ra.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đặng Trung H có một tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm, nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có một tiền án; ngoài ra ngày 22/02/1995 và 04/01/1999 bị cáo bị Công an huyện Cao Lộc xử phạt hành chính về hành vi cố ý gây thương tích, đã thi hành xong; ngày 18/5/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc tuyên phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bản án số 29/2010/HSST, đã chấp hành xong, nên bị coi là có nhân thân xấu.

[7] Từ những phân tích trên và trên cơ sở xem xét tính chất của vụ án, hậu quả của hành vi phạm tội Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, có như vậy mới đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa chung tội phạm cho xã hội.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với 3,634 gam MDMA đựng trong 01 (một) túi nilon cũ; 1,683 gam Ketamine dạng tinh thể đựng trong 01 (một) túi nilon cũ và 1,697 gam MDMA dạng bột, tất cả được niêm phong trong 01 (một) phong bì dán kín của Công an huyện Cao Lộc ghi chữ "QUẢ TANG ĐẶNG TRUNG H" (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh Hà, trợ lý giám định và hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới, là chất cấm tàng trữ, cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE màu trắng mặt sau màu hồng, có số IMEL: 352977095539188 của bị cáo Đặng Trung H, bị cáo dùng liên lạc để bán ma túy, xác định chiếc điện thoại là phương tiện phạm tội, nên cần tịch thu hóa giá, nộp ngân sách nhà nước.

[11] Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, mặt trước màu đen, mặt sau màu nâu, loại màn hình cảm ứng, có số IMEL: 3521411021711xx/xx của bà Đặng Thị Đ cho bị cáo Đặng Trung H mượn, bà Đặng Thị Đào không biết việc bị cáo Đặng Trung H dùng điện thoại liên lạc để bán ma túy, xác định đây là tài sản của bà Đặng Thị Đ, nên cần trả lại cho bà Đặng Thị Đ.

[12] Đối với người phụ nữ tên Hà Kiều A là người bán ma túy cho Đặng Trung H, ngoài lời khai của Đặng Trung H thì không còn tài liệu nào khác nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xác minh làm rõ đối tượng này là có căn cứ.

[13] Đối với các đối tượng tên C, H, Tr, T là những người mua ma túy của bị cáo Đặng Trung H, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được, nên không có căn cứ để xử lý là có căn cứ.

[14] Về án phí: Bị cáo Đặng Trung H bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[15] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[16] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Điều 331; Điều 332; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Trung H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

+ Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Đặng Trung H 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 01/5/2019.

+ Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 3,634 gam MDMA đựng trong 01 (một) túi nilon cũ; 1,683 gam Ketamine dạng tinh thể đựng trong 01 (một) túi nilon cũ và 1,697 gam MDMA dạng bột, tất cả được niêm phong trong 01 (một) phong bì dán kín của Công an huyện Cao Lộc ghi chữ "QUẢ TANG ĐẶNG TRUNG H" (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh Hà, trợ lý giám định và hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới.

- Tịch thu hóa giá, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE màu trắng mặt sau màu hồng, có số IMEL: 352977095539188 của bị cáo Đặng Trung H.

- Trả lại cho bà Đặng Thị Đ; cư trú tại: Số x, khu s, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, mặt trước màu đen, mặt sau màu nâu, loại màn hình cảm ứng, có số IMEL: 3521411021711xx/xx.

(Hiện các vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/8/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Đặng Trung H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, nộp vào ngân sách nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 75/2019/HS-ST ngày 11/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:75/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;