TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 75/2019/HS-PT NGÀY 20/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 54/2019/TLPT-HS, ngày 03/5/2019 đối với bị cáo Bùi Anh N do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
- Bị cáo kháng cáo:
Bùi Anh N, sinh ngày 27/5/1995 tại huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Phú Sơn, xã Tượng Sơn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; Con ông Bùi Đức Việt và bà Nguyễn Thị Phương; Có vợ: Ngô Thị Yến và 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 29/9/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 29/2014/HSST (chấp hành xong hình phạt ngày 09/8/2015); Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/12/2018 đến nay; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 21 giờ 15 phút ngày 14/12/2018, tại khu vực trước Bệnh viện phổi Hà Tĩnh ở đường Đồng Môn, phường Thạch Quý, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; Tổ công tác thuộc Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hà Tĩnh kiểm tra chiếc xe taxi Hà Tĩnh biển kiểm soát 38A-170.84 do Bùi Anh N điều khiển thì phát hiện trong hộc để đồ của cánh cửa phía trước, bên trái, ngay sát ghế lái có 01 gói ni lông trong suốt, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng. Bùi Anh N khai nhận gói ni lông trên là ma túy dạng đá N mua về để sử dụng. Bị cáo Bùi Anh N khai nhận: Bùi Anh N là nhân viên lái xe taxi của Công ty cổ phần vận tải Hà Tĩnh, N được giao quản lý và sử dụng xe taxi nhãn hiệu Huyndai Grand i10, biển kiểm soát 38A-170.84 để đón khách. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 14/12/2018, N có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có số điện thoại 0912797147 của mình gọi đến số thuê bao 0393848589 của người đàn ông tên Cường (không rõ lý lịch, địa chỉ cụ thể) hẹn gặp trước Nhà nghỉ Nha Trang thuộc phường Trần Phú, thành phố Hà Tĩnh và mua của Cường 01 gói nilon đựng ma túy đá với số tiền 2.500.000đ. Sau khi mua, N cầm gói ma túy để ở hộc đựng đồ của cánh cửa phía trước bên trái xe, ngay sát ghế lái. Đến 21 giờ 15 phút cùng ngày, khi N đang điều khiển xe taxi di chuyển trước khu vực Bệnh viện phổi Hà Tĩnh ở đường Đồng Môn, phường Thạch Quý, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh thì bị Tổ công tác thuộc Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hà Tĩnh phát hiện, bắt quả tang, thu giữ cùng tang vật.
Tại Bản kết luận giám định số 25/GĐMT-PC09 ngày 17/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nilon trong suốt gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 3,9633 gam, là Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II.C, STT 323, Nghị định 73/2018 ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Với hành vi phạm tội nêu trên, tại bản án Hình sự sơ thẩm số: 20/2019/HS-ST ngày 27/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh quyết định:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố Bùi Anh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt Bùi Anh N 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 14/12/2018.
Án sơ thẩm cồn tuyên về án phí, xử lý vật chứng, quyền kháng cáo.
Sau khi tuyên án sơ thẩm, ngày 01/4/2019 bị cáo Bùi Anh N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo, đề nghị Tòa phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo không yêu cầu làm rõ thêm tình tiết gì của vụ án, đồng ý với tội danh mà Hội đồng xét xử sơ thẩm đã tuyên.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố xét xử phúc thẩm vụ án đề nghị Hội xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cao của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo Bùi Anh N làm trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp bản án sơ thẩm, các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với vật chứng thu giữ trong vụ án và địa điểm phạm tội. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Vào hồi 21 giờ 15 phút ngày 14/12/2018, tại khu vực trước Bệnh viện phổi Hà Tĩnh ở đường Đồng Môn, phường Thạch Quý, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; Bùi Anh N đang có hành vi tàng trữ trái phép 3,9633 gam Methamphetamine để sử dụng thì bị Công an thành phố Hà Tĩnh phát hiện bắt quả tang, thu giữ cùng tang vật. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có ông ngoại và bác ruột là liệt sỹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2014 đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội cần phải xử lý nghiêm minh, tuy nhiên mức hình phạt 4 năm tù mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là có phần nặng. Bị cáo là lao động chính trong gia đình, vợ không có việc làm, con còn nhỏ vì vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Kháng cáo của bị cáo có căn cứ được chấp nhận.
[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Anh N.
Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HSST ngày 27 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh về phần hình phạt.
Tuyên bố Bùi Anh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt Bùi Anh N 39 (ba mươi chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 14/12/2018.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS, điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 về án phí, lệ phí Toà án bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 75/2019/HS-PT ngày 20/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 75/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/06/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về