TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HIỂN, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 75/2017/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2017 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN
Ngày 18 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 116/2017/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2017 về việc “Tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 127/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Ngọc T, sinh năm: 1990 (có mặt).
Địa chỉ cư trú: Đường X, Khóm 5, Phường 8, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc D, sinh năm 1983 (có mặt).
Địa chỉ cư trú: ấp R, xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 04 tháng 5 năm 2017 và biên bản hòa giải ngày 20 tháng 7 năm 2017 chị Nguyễn Ngọc T trình bày:
Chị Nguyễn Ngọc T và anh Nguyễn Quốc D kết hôn với nhau năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau. Chị T xác định nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường hay cự cải, xúc phạm lẫn nhau, tính tình hai người không phù hợp, anh D có hành vi đánh chị T. Chị T đã nhiều lần tìm cách hàn gắng nhưng không thành. Chị T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc nên yêu cầu xin ly hôn với anh D.
Về con chung: Chị T và anh D có 02 người con chung tên: Nguyễn Quốc Đ, sinh ngày 29 tháng 9 năm 2009 và Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 06 tháng 11 năm 2015. Sau khi ly hôn chị T yêu cầu xin được nuôi 01 người con là Nguyễn Ngọc T, còn cháu Nguyễn Quốc Đ chị Thi thống nhất giao cho anh D nuôi dưỡng. Chị T không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ thu, nợ trả: Chị T và anh D tự thõa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo đơn xin trình bày ý kiến ngày 30 tháng 6 năm 2017, biên bản hòa giải ngày 20 tháng 7 năm 2017 anh Nguyễn Quốc D trình bày:
Về hôn nhân: Thời gian đăng ký kết hôn và nơi đăng ký kết hôn như chị T trình bày là đúng. Trong cuộc sống vợ chồng không có phát sinh mâu thuẫn gì trầm trọng, vợ chồng chỉ bất đồng quan điểm, chị T lo đánh bài, nhậu nhẹt, không lo lắng con cái, chị T bỏ nhà đi từ tháng 3/2017 đến nay. Anh D xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, các con còn nhỏ nên chị T yêu cầu ly hôn anh D không đồng ý.
Về con chung: Có 02 người con tên, tuổi như chị T trình bày là đúng. Hiện các con đang sống với anh D. Nếu ly hôn thì anh D yêu cầu xin được nuôi 02 người con, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ thu, nợ trả: Anh D và chị T tự thõa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với cháu Nguyễn Quốc Đ có nguyện vọng được theo anh D.
Tại phiên tòa hôm nay chị T vẫn bảo lưu quan điểm là yêu cầu xin được ly hôn với anh D, yêu cầu được nuôi 01 người con tên Nguyễn Ngọc T, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con. Tài sản, nợ thu, nợ trả tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với anh D về hôn nhân anh D đồng ý ly hôn với chị T vì xét thấy hôn nhân không thể đem lại hạnh phúc. Về con anh D yêu cầu nuôi 01 người con là Nguyễn Quốc Đ theo nguyện vọng của cháu. Thống nhất giao cháu Nguyễn Ngọc T cho chị T nuôi dưỡng. Anh D không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản, nợ thu, nợ trả vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Ngọc T và anh Nguyễn Quốc D kết hôn với nhau vào năm 2008 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau. Vì vậy hôn nhân giữa chị T và anh D là hôn nhân hợp pháp. Chị T yêu cầu ly hôn, tại phiên hòa giải anh D không đồng ý vì mâu thuẫn không trầm trọng và các con còn nhỏ.
Tại phiên tòa hôm nay anh D thống nhất ly hôn với chị T. Xét thấy, đây là sự tự nguyện thuận tình ly hôn của chị T và anh D nên căn cứ vào Điều 55 Luật luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử ghi nhận sự thuận tình ly hôn của chị T đối với anh D.
[2] Về con chung: Chị T và anh D có 02 người con chung tên: Nguyễn Quốc Đ, sinh ngày 29 tháng 9 năm 2009 và Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 06 tháng 11 năm 2015, hiện nay đang ở với anh D. Xét thấy, cháu Đ đã hơn 07 tuổi và cháu có nguyện vọng theo anh D, anh D đồng ý nuôi dưỡng nên căn cứ vào khoản 2 Điều 81 giao cháu Đ cho anh D nuôi dưỡng là phù hợp. Đối với cháu T hiện nay cháu còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi, do cháu T còn nhỏ nên cháu cần phải có sự chăm sóc của người mẹ để đảm bảo cho cháu phát triển một cách bình thường như bao trẻ khác. Mặt khác chị T cũng có yêu cầu nuôi cháu T, đối với anh D đồng ý giao cháu T cho chị T nuôi dưỡng nên giao cháu T cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp. Anh D và chị T không đặc ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.
[3] Về phần tài sản chung, nợ thu, nợ trả: Chị T và anh D tự thỏa thuận không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.
[4] Về án phí: Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thương vụ Quốc Hội. Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị T phải nộp là: 300.000 đồng. Phần dự nộp của chị T được đối trừ.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo luật định. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 55, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thương vụ Quốc Hội. Tuyên xử:
- Về hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn của chị Nguyễn Ngọc T đối với anh Nguyễn Quốc D.
- Về con chung: Giao con tên Nguyễn Quốc Đ, sinh ngày 29 tháng 9 năm 2009 cho anh Nguyễn Quốc D nuôi dưỡng. Giao con tên Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 06 tháng 11 năm 2015 cho chị Nguyễn Ngọc T nuôi dưỡng. Phần cấp dưỡng nuôi con chị Nguyễn Ngọc T và anh Nguyễn Quốc D không yêu cầu nên không xem xét.
Chị Nguyễn Ngọc T và anh Nguyễn Quốc D có quyền thăm nom, chăm sóc giáo dục con theo quy định của pháp luật nhưng không được lạm dụng quyền thăm nom, chăm sóc giáo dục con để cản trở việc nuôi con của nhau.
- Về tài sản chung, nợ thu, nợ trả: Chị Nguyễn Ngọc T và anh Nguyễn Quốc D tự thỏa thuận không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.
- Về án phí: Chị Nguyễn Ngọc T phải nộp án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là: 300.000 đồng. Phần dự nộp của chị Nguyễn Ngọc T là: 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0013595 ngày 04 tháng 5 năm 2017 được đối trừ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 75/2017/HNGĐ-ST ngày 18/08/2017 về tranh chấp xin ly hôn
Số hiệu: | 75/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hiển - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/08/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về