Bản án 743/2020/HNGĐ-ST ngày 20/08/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 743/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ LY HÔN

Trong ngày 20 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 188/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2020 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020 và Quyết định tạm ngừng phiên toà số 79/2020/QĐST-HN ngày 28 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị Ngọc Y, sinh năm: 1971; Địa chỉ: 1678/26 đường P, Phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc G, sinh năm: 1971; Địa chỉ: 1678/26 đường P, Phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ hiện nay: Đang chấp hành án tại Trại giam Thủ Đức (Cục C10 - Bộ Công An), huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ghi ngày 17 tháng 02 năm 2020 cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án nguyên đơn bà Hoàng Thị Ngọc Y trình bày: Bà và ông Nguyễn Ngọc G chung sống vợ chồng từ năm 1994, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Theo giấy chứng nhận kết hôn số 01, quyển 71/94, đăng ký ngày 27/10/1994. Cuộc sống chung không hạnh phúc do vợ chồng bất đồng quan điểm, khó có thể hoà hợp. Ông G không chăm lo cho cuộc sống gia đình, thường xuyên tụ tập ăn chơi, bà Y cũng đã thường xuyên khuyên nhưng ông G vẫn không thay đổi. Bản thân bà Y không muốn tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân này nữa. Bà Y và ông G đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay nên tình cảm vợ chồng không còn. Bà Hoàng Thị Ngọc Y yêu cầu toà án xem xét giải quyết cho bà được ly hôn ông Nguyễn Ngọc G. Về con chung: có 02 con chung tên là Nguyễn Hoàng B, sinh ngày: 28/4/1996 (thành niên) và Nguyễn Hoàng Q, sinh ngày: 19/12/2003 ngoài ra không có con chung nào khác. Bà Y có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung tên là Nguyễn Hoàng Q, không yêu cầu ông Nguyễn Ngọc G cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại bản tự khai ngày 16 tháng 6 năm 2020 cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án bị đơn là ông Nguyễn Ngọc G trình bày: ông G và bà Hoàng Thị Ngọc Y tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn năm 1994 tại Ủy ban nhân dân Phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình sống chung vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn do ông ham chơi, không lo cho gia đình, ông có ngoại tình. Nay chị Y yêu cầu ly hôn, ông không đồng ý ly hôn vì ông còn thương vợ con. Quá trình sống chung ông và bà Y có 02 con chung là Nguyễn Hoàng B, sinh năm: 1996 và Nguyễn Hoàng Q, sinh năm: 2003. Sau khi ly hôn ông có nguyện vọng giao con tên là Q cho bà Y nuôi dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung: ông G không yêu cầu toà án giải quyết.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; Đương sự chấp hành tốt pháp luật tố tụng khi tham gia tố tụng dân sự. Về phần nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Giấy đăng ký kết hôn số 01, quyển 71/94, đăng ký ngày 27/10/1994 tại Ủy ban nhân dân Phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Bản sao Giấy khai sinh số 106, quyển số: I/96 đăng ký ngày 29/4/1996 và số 520, quyển số: 3/2003 đăng ký ngày 30/12/2003 tại Ủy ban nhân dân Phường 6, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Tòa án xác định đây là những tình tiết, sự kiện chứng cứ không phải chứng minh căn cứ vào Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét đơn khởi kiện của bà Hoàng Thị Ngọc Yến thì đây là vụ án tranh chấp về ly hôn; do bị đơn có hộ khẩu thường trú tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại các điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét nguyên đơn bà Hoàng Thị Ngọc Y có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Bị đơn ông Nguyễn Ngọc G có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét việc bà Hoàng Thị Ngọc Y và ông Nguyễn Ngọc G sống vợ chồng từ năm 1994, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận kết hôn số 01, quyển 71/94, đăng ký ngày 27/10/1994; Nên xác đinh đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Xét yêu cầu của bà Hoàng Thị Ngọc Y xin ly hôn với ông Nguyễn Ngọc G. Do cuộc sống chung không hạnh phúc, vợ chồng bất đồng quan điểm, khó có thể hoà hợp, ông G không chăm lo cho cuộc sống gia đình. Cả hai đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay nên tình cảm vợ chồng không còn. Bản thân bà Y không muốn tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân này nữa nên xin ly hôn ông Nguyễn Ngọc G. Ông G thừa nhận trong quá trình sống chung vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn do ông ham chơi, không lo cho gia đình, ông có ngoại tình. Xét thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó yêu cầu của bà Hoàng Thị Ngọc Y xin được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc G là có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Xét về con chung: Bà Hoàng Thị Ngọc Y và ông Nguyễn Ngọc G có 02 con chung tên là Nguyễn Hoàng B, sinh ngày: 28/4/1996 (thành niên) và Nguyễn Hoàng Q, sinh ngày: 19/12/2003 ngoài ra không có con chung nào khác. Hiện nay bà Hoàng Thị Ngọc Y đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung và có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên là Nguyễn Hoàng Q. Xét yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con chung của bà Hoàng Thị Ngọc Y là phù hợp với thực tế, đảm bảo quyền lợi cho con trẻ nên Hội đồng xét xử chấp nhận; Quyết định giao con chung tên là Nguyễn Hoàng Q cho bà Hoàng Thị Ngọc Y trực tiếp nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Về cấp dưỡng nuôi con bà Hoàng Thị Ngọc Y không có yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[6] Xét về tài sản chung và nợ chung: Bà Y và ông G không có yêu cầu toà án giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[7] Xét về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm:

Bà Hoàng Thị Ngọc Y phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

Căn cứ vào Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình:

Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự; Căn cứ Luật Phí và Lệ phí năm 2015:

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu của bà Hoàng Thị Ngọc Y xin ly hôn ông Nguyễn Ngọc G.

2. Về con chung: 02 con chung tên là Nguyễn Hoàng B, sinh ngày:

28/4/1996 (thành niên) và Nguyễn Hoàng Q, sinh ngày: 19/12/2003 ngoài ra không có con chung nào khác.

Giao cho bà Hoàng Thị Ngọc Y trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Nguyễn Hoàng Q. Về cấp dưỡng nuôi con bà Hoàng Thị Ngọc Y không có yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

Không ai được quyền ngăn cản việc thăm non, chăm sóc, giáo dục con chung của cha mẹ.

Vì lợi ích của trẻ theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Y và ông G không có yêu cầu toà án giải quyết nên Tòa án không xem xét.

4. Án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng bà Hoàng Thị Ngọc Y phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu số 0012967 ngày 25/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 8. Bà Hoàng Thị Ngọc Y đã nộp đủ án phí.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 743/2020/HNGĐ-ST ngày 20/08/2020 về ly hôn

Số hiệu:743/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;