Bản án 74/2024/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 74/2024/HS-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2024/TLST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2024/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Lê Thị Hoàng O, sinh năm 1989, tại tỉnh Trà Vinh; hộ khẩu thường trú: Số 46, đường số 01, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Trung C, sinh năm 1963 và bà Trương Thị Kim Y, sinh năm 1963; bị cáo có 02 con sinh năm 2017, 2021; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/4/2023. Đến ngày 08/5/2023, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Bà Hoàng Thị Thúy V – vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị Hoàng O là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định. Để có tiền tiêu xài, từ ngày 24/4/2023, O bắt đầu hoạt động mua bán trái phép ma túy đá (loại Methamphetamine). O liên hệ với đối tượng nữ tên Băng không rõ lai lịch ở Thành phố Hồ Chí Minh qua zalo “Heo Cạp" được đăng ký bằng số điện thoại 0969.550.xxx của O qua zalo tên “Bé My” của Băng để hỏi mua ma túy. Khi đối tượng nghiện ma túy có nhu cầu mua ma túy sử dụng thì điện thoại qua zalo cho O, sau đó hẹn địa điểm giao dịch, O sẽ đem ma túy đến nơi bán.

Với cách thức hoạt động như trên, khoảng 10 giờ ngày 24/4/2023, Hoàng Thị Thúy V sử dụng zalo tên “Bé Gòm” điện thoại vào zalo của O hỏi mua 01 túi ma túy đá với giá 1.500.000 đồng. V nói O giao ma túy cho V tại nhà trọ Trần Tài, đường NH15, khu phố 1, phường Thới Hòa, thị xã Bến Cát của V, O đồng ý. Sau đó, O điện thoại cho Băng hỏi mua một túi ma túy đá với giá 1.000.000 đồng và nói Băng giao ma túy tại phòng số 04, nhà trọ không tên, đường NC3, khu phố 4, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát nơi O thuê ở. Đến 15 giờ cùng ngày, Băng đến giao ma túy cho O. Sau khi mua được ma túy, O điều khiển xe mô tô hiệu Mio (không rõ biển số) đem túi ma túy vừa mua được đến phía trước nhà trọ Thần Tài, đường NH15, khu phố 1, phường Thới Hòa, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương bán cho V với giá 1.500.000 đồng. V sau khi mua ma túy từ O thì đã lấy một ít ra sử dụng, còn lại một ít thì cất giấu nhằm mục đích mua bán.

Khoảng 16 giờ, ngày 28/4/2023, O tiếp tục sử dụng zalo điện thoại cho Băng hỏi mua “100 số ma túy” thì Băng báo giá là 4.300.000 đồng. O đồng ý và hẹn giao ma túy tại trước nhà trọ không tên, đường NC3, khu phố 4, phường Mỹ Phước, O hứa sẽ trả công cho Băng thêm 1.000.000 đồng. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Băng đến giao cho O một túi nylon miệng kéo dính và ba gói nylon hàn kín chứa ma túy đá. O trả tiền cho Băng rồi đem số ma túy vừa mua được vào phòng số 04. O đem ba gói nylon hàn kín chứa ma túy đá bỏ vào hộp nhựa đựng thực phẩm chức năng để trên giường ngủ, còn một túi nylon chứa ma túy đá thì O cất giấu vào trong hộp giấy màu đen để dưới chân cầu thang trong phòng số 04. Đến khoảng 00 giờ 20 phút, ngày 29/4/2023, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thị xã Bến Cát phối hợp với Công an phường Mỹ Phước đến kiểm tra hành chính, phát hiện thu giữ ma túy, bắt giữ O cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ:

- Một túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng (M1) và ba gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (M2).

- Một điện thoại di động hiệu Vivo T1 5G gắn sim thuê bao số 0969.550.xxx.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Thị Hoàng O đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai phù hợp với tài liệu chứng cứ thu giữ trong vụ án.

Theo Bản kết luận giám định số 239/KL-KTHS(MT) ngày 05/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Tinh thể màu trắng thu giữ tại phòng của O gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng/trọng lượng: M1=1,0539 gam, M2=7,2817 gam. Tổng khối lượng/trọng lượng là 8,3356gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật sau giám định được niêm phong có khối lượng/trọng lượng: M1=1,0076 gam, M2=6,8694 gam. Tổng khối lượng/trọng lượng là 7,877 gam loại Methamphetamine.

Đối với Hoàng Thị Thúy V có hành vi mua một túi ma túy loại Methaphetamine với giá 1.500.000 đồng của Lê Thị Hoàng O nhằm mục đích mua bán, ngày 09/11/2023, V đã bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo Bản án số 217/2023/HS-ST ngày 09/11/2023 với lượng ma túy còn lại đem đi giám định là loại Methamphetamine có khối lượng/trọng lượng là 1,0329 gam.

Tại bản Cáo trạng số 60/CT-VKSBC ngày 16 tháng 02 năm 2024 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Lê thị Hoàng O về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Lê Thị Hoàng O mức án từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, đề nghị Tòa án tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy hai bì thư, được niêm phong số 239/PC09 (M1) và số 239/PC09 (M2) có chữ ký người bị bắt Lê Thị Hoàng O, chữ ký người chứng kiến Lê Cẩm T, chữ ký cán bộ niêm phong Võ Huy H, Đại úy Phạm Văn T (Phó Trưởng Công an phường Mỹ Phước) và hình mộc dấu tròn của Công an phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương (theo Kết luận giám định số 239/KL-KTHS (MT) ngày 05/5/2023) và sim thuê bao số 0969.550.xxx.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: Một điện thoại di động hiệu Vivo T1 5G.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố, bản luận tội của Viện Kiểm sát và Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 24/4/2023, O có hành vi bán ma túy loại Methaphetamine cho Hoàng Thị Thúy V. Sau khi sử dụng một ít ma túy, phần còn lại Vân cất giấu nhằm mục đích để mua bán với có khối lượng/trọng lượng khi giám định là 1,0329 gam, loại Methamphetamine.

Ngày 28/4/2023, O có hành vi cất giấu ba gói nylon hàn kín chứa ma túy đá trong hộp nhựa đựng thực phẩm chức năng để trên giường ngủ, một túi nylon chứa ma túy đá trong hộp giấy màu đen để dưới chân cầu thang. Việc O cất giấu số ma túy trên nhằm mục đích bán cho người khác.

Theo Bản kết luận giám định số 239/KL-KTHS(MT) ngày 05/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Tinh thể màu trắng thu giữ tại phòng của O gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng/trọng lượng: M1=1,0539 gam, M2=7,2817 gam. Tổng khối lượng/trọng lượng là 8,3356gam, loại Methamphetamine.

Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo có hành vi bán ma túy cho Vân và cất giấu một lượng ma túy để nhằm mục đích mua bán. Vì hành vi cất giấu ma túy nhằm mục đích mua bán vào ngày 28/4/2023 chưa xác định được đối tượng mua ma túy là ai nên bị cáo không phạm tội với tình tiết định khung là phạm tội nhiều lần.

Như vậy, Cáo trạng số 60/CT-VKSBC ngày 16 tháng 02 năm 2024 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Lê Thị Hoàng O về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý đặc biệt đối với chất ma tuý của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức được tác hại của ma túy, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo biết hành vi mua bán trái phép chất ma tuý là hành vi phạm pháp luật, nhưng vì hám lợi nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Để có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa chung, Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian.

[4] Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Hai bì thư, được niêm phong số 239/PC09 (M1) và số 239/PC09 (M2) có chữ ký người bị bắt Lê Thị Hoàng O, chữ ký người chứng kiến Lê Cẩm T, chữ ký cán bộ niêm phong Võ Huy H, Đại úy Phạm Văn T (Phó Trưởng Công an phường Mỹ Phước) và hình mộc dấu tròn của Công an phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương (theo Kết luận giám định số 239/KL-KTHS (MT) ngày 05/5/2023) và sim thuê bao số 0969.550.xxx là vật không có giá trị sử dụng, dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Một điện thoại di động hiệu Vivo T1 5G, bị cáo sử dụng để mua bán ma túy nên cần tịch nộp Ngân sách Nhà nước.

[7] Đối với đối tượng tên Băng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát đang tiếp tục điều tra, khi xác định được sẽ xử lý sau.

[8] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Lê Thị Hoàng O phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Hoàng O 08 (tám) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo vào để thi hành án, được khấu trừ vào thời hạn giam, tạm giữ từ ngày 29/4/2023 đến ngày 08/5/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy hai bì thư, được niêm phong số 239/PC09 (M1) và số 239/PC09 (M2) có chữ ký người bị bắt Lê Thị Hoàng O, chữ ký người chứng kiến Lê Cẩm T, chữ ký cán bộ niêm phong Võ Huy H, Đại úy Phạm Văn T (Phó Trưởng Công an phường Mỹ Phước) và hình mộc dấu tròn của Công an phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương (theo Kết luận giám định số 239/KL-KTHS(MT) ngày 05/5/2023) và sim thuê bao số 0969.550.xxx. 

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: Một điện thoại di động hiệu Vivo T1 5G. (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22 tháng 02 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Thị Hoàng O phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 74/2024/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;