Bản án 74/2021/HNGĐ-ST ngày 26/03/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

 BẢN ÁN 74/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/03/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 2551/2020/TLST-HNGĐ ngày 02/12/2020 về việc “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2021/QĐST-HNGĐ ngày 18/02/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1982; cư trú tại: Tổ 8, Khu phố L, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1985; cư trú tại: Tổ 8, Khu phố L, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn – Bà Lê Thị H, trình bày:

Bà và ông Nguyễn Văn T kết hôn năm 2009, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện L1, tỉnh Đồng Nai ngày 18/12/2009. Quá trình chung sống, vợ chồng chỉ hạnh phúc thời gian đầu sau đó thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm đến nhau. Từ cuối năm 2019 đến nay, ông T đã dọn ra ngoài sống. Nay, bà xác định tình cảm không còn, hôn nhân không đạt được mục đích nên xin ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

Về con chung: Bà và ông T có 02 con chung là cháu Nguyễn Lê Thành P1, sinh ngày 06/8/2010 và cháu Nguyễn Lê Thanh T1, sinh ngày 14/12/2012.

Khi ly hôn, bà xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung là cháu P1 và cháu T1. Bà yêu cầu ông T cấp dưỡng hàng tháng để nuôi cả hai con chung số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) cho đến khi các con trưởng thành, có khả năng lao động.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn – ông Nguyễn Văn T, trình bày:

Ông thừa nhận quan hệ hôn nhân như bà Lê Thị H trình bày là đúng. Từ cuối năm 2019, ông chuyển ra ngoài sống, vợ chồng không còn sống chung. Tuy nhiên, ông xác định vẫn còn tình cảm với bà H nên không đồng ý ly hôn với bà H. Ông muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con cái.

Về quan hệ hôn nhân: Ông không đồng ý ly hôn với bà H.

Về con chung: Ông và bà H có 02 con chung là cháu Nguyễn Lê Thành P1, sinh ngày 06/8/2010 và cháu Nguyễn Lê Thanh T1, sinh ngày 14/12/2012.

Nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn, ông tôn trọng nguyện vọng của các con, nếu các con có nguyện vọng ở với mẹ thì ông đồng ý giao hai cháu P1 và cháu T1 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Ông đồng ý cấp dưỡng hàng tháng để nuôi cả hai con chung số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) cho đến khi các con trưởng thành, có khả năng lao động.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử và những tham gia tố tụng: Thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Thị H; về con chung: Giao cháu Nguyễn Lê Thành P1, sinh ngày 06/8/2010 và cháu Nguyễn Lê Thanh T1, sinh ngày 14/12/2012 cho bà H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành và có khả năng lao động. Ông T cấp dưỡng nuôi hai con chung hàng tháng với số tiền là 3.000.000đ (Ba triệu đồng); về tài sản chung: Không có; về nợ chung: Không có; về án phí: Bà H, ông T phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn là ông Nguyễn Văn T hiện cư trú tại địa bàn thành phố Biên Hòa nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa theo điểm a, Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các quyết định tố tụng cho bà H và ông T. Tuy nhiên, bà H có đơn xin xét xử vắng mặt, ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị H và ông Nguyễn Văn T kết hôn năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện L1, tỉnh Đồng Nai ngày 18/12/2009, trên cơ sở hôn nhân tự nguyện nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp theo Điều 9,11,12 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà H là có cơ sở chấp nhận vì:

Theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, vợ chồng có nghĩa vụ sống chung, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Thực tế, sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm đến nhau. Từ cuối năm 2019 đến nay, ông T chuyển ra ngoài sống, hai vợ chồng không còn sống chung. Bà H nhận thấy cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn nên bà xin được ly hôn với ông T. Ông T cũng thừa nhận từ cuối năm 2019 đến nay, hai vợ chồng không còn chung sống.

Như vậy, xét thấy, mục đích hôn nhân giữa bà H và ông T không đạt được nên căn cứ vào các điều 51, 54, 56, 57, 58 và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết cho bà H được ly hôn với ông T.

[4] Về con chung: Bà H và ông T có 02 (hai) con chung là cháu Nguyễn Lê Thành P1, sinh ngày 06/8/2010 và cháu Nguyễn Lê Thanh T1, sinh ngày 14/12/2012.

Khi ly hôn, bà H có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai cháu P1 và cháu T1. Ông T trình bày muốn tôn trọng nguyện vọng của các con. Tại các bản tự khai ngày 27/01/2021, cháu Nguyễn Lê Thành P1 và cháu Nguyễn Lê Thanh T1 có nguyện vọng được sống chung với mẹ. Do đó, để đảm bảo sự ổn định và phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần của trẻ, Tòa án giao cháu Nguyễn Lê Thành P1, sinh ngày 06/8/2010 và cháu Nguyễn Lê Thanh T1, sinh ngày 14/12/2012 cho bà Lê Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng hàng tháng để nuôi cả hai con chung số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) cho đến khi các con trưởng thành, có khả năng lao động.

Ông T được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con mà không ai được cản trở. Vì quyền lợi của các con, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung: Các đương sự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[6] Về nợ chung: Các đương sự khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí: Bà Lê Thị H phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, ông Nguyễn Văn T phải nộp 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

[8] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án phù hợp với n hận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 205; Điều 207; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 238 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 9, 11, 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

Áp dụng các Điều 51, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Lê Thành P1, sinh ngày 06/8/2010 và cháu Nguyễn Lê Thanh T1, sinh ngày 14/12/2012 cho bà Lê Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Ông Nguyễn Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng hàng tháng để nuôi cả hai con chung số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) cho đến khi các con trưởng thành, có khả năng lao động.

Ông T được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục các con mà không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của các con, khi cần thiết, các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Kể từ ngày bà Lê Thị H có đơn yêu cầu thi hành án mà ông Nguyễn Văn T không thi hành hoặc không thanh toán hết số tiền phải thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu lãi suất theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 Bộ Luật dân sự năm 2015 đối với số tiền chưa thanh toán.

3. Về tài sản chung: Không có nên không đặt ra xem xét.

4. Về nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét.

5. Về án phí:

Bà Lê Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí bà H đã nộp theo biên lai thu số 0007501 ngày 24/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, bà H đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Ông Nguyễn Văn T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Bà Lê Thị H và ông Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 74/2021/HNGĐ-ST ngày 26/03/2021 về ly hôn

Số hiệu:74/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;