Bản án 74/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG XƯƠNG -TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 74/2020/HS-ST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 74/2020/HSST ngày 23/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2020/HSST - QĐ ngày 15/12/2020 đối với bị cáo:

Lê Đình C - sinh năm: 1982.

Nơi ĐKNKTT: xã L, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Đình T và bà Lê Thị N; có vợ là Lê Thị L và 02con; Tiền án, tiền sự: Chưa.

Nhân thân:

- Ngày 16/7/2003 bị Tòa án nhân dân TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng về tội:“ Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong án phí ngày tháng 02 năm 2004 (Đã được xóa án tích).

- Ngày 24/02/2011 bị Tòa án nhân dân Quận Đống Đa, TP Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/12/2012; chấp hành xong phần án phí ngày 22/6/2011 (Đã được xóa án tích).

- Ngày 14/8/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 20tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/02/2017; chấp hành xong phần án phí tháng 10 năm 2015, về trách nhiệm bồi thường dân sự bị hại không có đơn yêu cầu thi hành án( đến nay đã hết thời hiệu thi hành án) (Đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/9/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

- Ông Nguyễn Tiến T - sinh năm 1959 (vắng mặt ) Địa chỉ: xã N, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Mai Đình S - sinh năm 1981 (vắng mặt ) Địa chỉ: xã N, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mối quan hệ quen biết, thường xuyên đến nhà ông Nguyễn Tiến T- sinh năm 1959 ở xã N, huyện Quảng Xương chơi nên Lê Đình C biết nhà ông T có 01 máy rửa xe hiệu MARUYAMA MS410 để trong nhà kho, C nảy sinh ý định trộm cắp chiếc máy này bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Đến khoảng 14 giờ ngày 21/9/2020 Lê Đình C điều khiển xe máy của chị Lê Thị L - sinh năm 1983 ở xã L, huyện Quảng Xương (là vợ của C) đến nhà ông T. Thấy nhà ông T không có ai ở nhà, cổng mở, C dựng xe máy ở cổng rồi đi vào nhà kho bê chiếc máy rửa xe hiệu MARUYAMA MS410 của gia đình ông T ra để lên xe máy chở đi bán. Lúc này ông T đi về, nhìn thấy C đang đặt chiếc máy rửa xe lên xe nhưng ông T không nhận ra đây là máy của nhà mình nên ông T hỏi C “Máy mày lấy ở đâu đấy”, C nói “cháu vừa lấy ở xóm ngoài, bác mua không”, ông T không mua nên C điều khiển xe chở theo chiếc máy đi. C chở chiếc máy đến nhà anh Mai Đình S - sinh năm 1981 ở xã N, huyện Quảng Xương là người quen của C làm nghề thu mua sắt vụn, C nói với S “Em có cái máy này anh có mua không” nhưng S nói không mua; C nói “thế anh cho vay 1.000.000đ, em để cái máy ở đây, tối em quay lại lấy sau” thì S đồng ý và đưa cho C 1.000.000đ, C để lại chiếc máy rửa xe và đi mua ma túy sử dụng hết số tiền trên.

Sau khi về nhà ông T phát hiện bị mất chiếc máy rửa xe nên ông T đã nói cho chị L là vợ C biết việc C đã lấy trộm chiếc máy rửa xe của gia đình ông và báo cáo vụ việc đến Công an xã Quảng Nhân, huyện Quảng Xương để giải quyết.

Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày thì chị L đến nhà anh S lấy lại chiếc máy rửa xe mà C đã gửi lại và đến trả lại cho ông T. Ông T đã giao nộp chiếc máy rửa xe cho Cơ quan CSĐT để xử lý theo quy định của pháp luật.

Theo báo cáo của ông Nguyễn Tiến T, chiếc máy rửa xe bị mất là của ông, thời điểm bị mất trị giá khoảng 8.000.000đ. Ngày 24/9/2020 Hội đồng định giá tài sản huyện Quảng Xương, định giá chiếc máy rửa xe MARUYAMA MS410 ông T bị C trộm cắp trị giá 6.300.000đ. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quảng Xương đã trả lại chiếc máy cho ông T. Ông T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.

Đối với Mai Đình S, khi C đem chiếc máy rửa xe đến gửi, S không biết đây là tài sản do C trộm cắp mà có nên không có cơ sở xử lý đối với S. Đối với số tiền 1.000.000đ C vay của S, gia đình C đã trả lại cho anh S, anh S đã nhận lại tiền và không có yêu cầu gì.

Đối với chiếc xe mô tô C điều khiển đi trộm cắp tài sản, quá trình điều tra xác định là tài sản C của gia đình C, do chị Lê Thị L (vợ C) mua và sử dụng, do đó Cơ quan điều tra không thu giữ chiếc xe trên.

Tạị bản cáo trạng số 77/CTr - VKS ngày 18/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương đã truy tố bị cáo Lê Đình C về tội:“ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện VKSND huyện Quảng Xương giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như cáo trạng đã nêu và đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí và Lệ phí Tòa án; xử phạt bị cáo: Lê Đình C từ 12 đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/9/2020.

Về dân sự: Ông Nguyễn Tiến T và anh Mai Đình S không có yêu cầu gì về phần dân sự nên không xét.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quảng Xương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án. Xác định: Khoảng 14 giờ 15 phút ngày 21/9/2020 tại gia đình ông Nguyễn Đình T, sinh năm 1959 ở xã N, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, Lê Đình C đã có hành vi lợi dụng sơ hở trộm cắp 01 chiếc máy rửa xe nhãn hiệu MARUYAMA MS410, trị giá là 6.300.000đ (Sáu triệu ba trăm nghìn đồng).

Như vậy đủ cơ sở kết luận hành vi nêu trên của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội:“Trộm cắp tài sản”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của BLHS. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương truy tố bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của BLHS là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất của vụ án và nhân thân của bị cáo: Với mục đích để có tiền chi tiêu cá nhân mà không phải bỏ sức lao động. Lợi dụng sự sơ hở, thiếu cảnh giác trong việc quản lý tài sản, bị cáo C đã lén lút chiếm đoạt tài sản của gia đình ông Nguyễn Tiến T một cách trái pháp luật. Bị cáo có nhân thân xấu đã nhiều lần bị Tòa án xét về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, trộm cắp tài sản, là người có sức khỏe nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, lười lao động, mà tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Hành vi phạm tội của bị cáo gây mất trật tự trị an trong xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi quyết định mức hình phạt cần xem xét: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo. Vì vậy căn cứ vào điểm s khoản 1, Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Tiến T và anh Mai Đình S không có yêu cầu gì về phần dân sự nên không xét.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật,

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1Điều 51; Điều 38 BLHS; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí và Lệ phí Tòa án; Mục 1, Phần I Danh mục án phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Đình C phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Đình C 12 (Mười hai ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/9/2020.

Trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Tiến T và anh Mai Đình S không có yêu cầu gì về phần dân sự nên không xét.

Án phí: Bị cáo Lê Đình C phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 74/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:74/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Xương - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;