Bản án 74/2020/HS-ST ngày 02/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 74/2020/HS-ST NGÀY 02/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 11 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CưM’gar xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Y K Ayŭn; sinh năm 1994, tại tỉnh Đắk Lắk;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Buôn Y, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Ê đê; Giới tính: Nam;

Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Y S Ksơr, sinh năm 1966 và bà H’ N Ayŭn, sinh năm 1968; bị cáo có vợ là H’ Ng Niê, sinh năm 1995 và 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2018. Tiền án tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 28/01/2015 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện CưM’gar xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản, thời gian thử thách 18 tháng (đã được xóa án tích). Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk. Có mặt tại phiên tòa.

2/ Họ và tên: Y Kh Niê; sinh năm 1983, tại tỉnh Đắk Lắk;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Buôn Y, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Ê đê; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Tin lành; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Y H Ayŭn (đã chết) và bà H’ R Niê , sinh năm 1962; bị cáo có vợ là H’ D Ayŭn, sinh năm 1987 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2012. Tiền án tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk. Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho các bị cáo: Ông Mai Quốc A, Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Ánh Đắk Lắk (Có mặt) Địa chỉ: 121 H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Bị hại: Ông Phạm Thanh V, sinh năm 1975 (Vắng mặt) Trú tại: Thôn 3, xã H, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Chị H’ D Ayŭn, sinh năm 1987 (Có mặt) Trú tại: Buôn Y, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

2/ Bà H’ N Ayŭn, sinh năm 1968 (Có mặt) Trú tại: Buôn Y, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

3/ Bà Hồ Thị Minh Đ(Vắng mặt) Địa chỉ: 99 Nguyễn Văn Li, phường T, Tp B, tỉnh Đắk Lắk.

Người phiên dịch: Bà H E Niê Kđăm (Có mặt) Địa chỉ: Phòng dân tộc huyện C, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 20/7/2020 đến ngày 21/7/2020, Y K Ayŭn và Y Kh Niê đã rủ nhau cùng thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 10 giờ ngày 20/7/2020, Y Kh Niê điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47L9-6695, nhãn hiệuYamaha, loại xe Jupiter Mx đi đến quán nhậu của bà H’ Nuan Niê (tên thường gọi là A Mí Phương, trú tại buôn Y, xã E), tại đây, Y Kh gặp và nhậu cùng Y K Ayŭn. Trong lúc nhậu cả hai rủ nhau đi trộm cắp quả sầu riêng bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Sau đó, Y Kh điều khiển xe mô tô 47L9- 6695 chở Y K đến cửa hàng bán đồ gia dụng của bà Đỗ Thị Bình tại chợ xã Cuôr Đăng, huyện CưM’gar mua 04 cái giỏ (loại giỏ có dây nhựa màu vàng, xanh, đỏ đan lát vào nhau, có hai quai dùng để xách) làm dụng cụ đựng sầu riêng. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Y Kh điều khiển xe mô tô 47L9-6695, còn Y K điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 19H8-8270, nhãn hiệu SYM, loại xe Motostar mang theo 04 cái giỏ nhựa đi đến rẫy của anh Phạm Thanh V tại Buôn Y, xã E, huyện C để trộm cắp sầu riêng. Khi đến nơi, Y Kh và Y K cất giấu xe mô tô trong lô cao su cách rẫy anh V khoảng 500m rồi đi bộ đến rẫy. Y K sử dụng 01 chiếc kìm dài khoảng 20cm cắt lưới hàng rào rồi cả hai vào bên trong rẫy hái trộm sầu riêng. Khi hái đầy 02 giỏ nhựa và 02 bao xác rắn (nhặt được tại rẫy của anh V), Y K và Y Kh mang số sầu riêng trộm cắp được cất giấu tại lô cao su cách rẫy của anh V khoảng 250m rồi lấy xe đi về nhà. Khoản 05 giờ 30 phút ngày 21/7/2020, Y Kh điều khiển xe 47L9-6695, Y K điều khiển xe 19H8-8270 đến nơi cất giấu sầu riêng và chở toàn bộ số sầu riêng trộm cắp được đến bán cho chị Hồ Thị Minh Đ (chủ vựa trái cây Minh Đào tại 99 Nguyễn Văn L, Tp B). Tại đây, cân được 110kg sầu riêng loại Ri6, trong đó có 100kg sầu riêng đã tới kỳ thu hoạch, 10kg sầu riêng chưa tới kỳ thu hoạch, bán được 3.000.000 đồng, mỗi người chia nhau 1.500.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 63 ngày 24/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện CưM’gar kết luận: 100kg quả sầu riêng loại Ri6 (đã đến giai đoạn thu hoạch) có giá 3.800.000 đồng; 10kg quả sầu riêng Ri6 (chưa đến thời kỳ thu hoạch) có giá 200.000 đồng. Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 4.000.000 đồng.

- Vụ thứ hai: Bằng thủ đoạn như vụ thứ nhất, khoảng 23 giờ ngày 21/7/2020, Y Kh Niê điều khiển xe 47L9-6695 còn Y K Ayŭn điều khiển xe mô tô 19H8-8270 và mang theo 04 cái giỏ nhựa tiếp tục đến rẫy nhà anh Phạm Thanh V để trộm cắp quả sầu riêng. Khi đến nơi, cả hai cất giấu xe rồi đi bộ đến rẫy anh V, Y K tiếp tục dùng kìm cắt lưới hàng rào rồi cả hai mang 04 cái giỏ nhựa vào trong rẫy của anh V trộm cắp sầu riêng. Khi cả hai hái đầy sầu riêng vào trong 04 cái giỏ nhựa, Y K và Y Kh vác sầu riêng ra cất giấu tại vị trí cất giấu đêm ngày 20/7/2020 rồi lấy xe mô tô về nhà ngủ. Khoảng 06 giờ ngày 22/7/2020, Y Kh điều khiển xe 47L9-6695 còn Y K điều khiển xe 19H8-8270 đến nơi cất giấu sầu riêng và chở 04 giỏ sầu riêng đến bán cho chị Hồ Thị Minh Đ với tổng trọng lượng cân được là 140kg loại Ri6, trong đó có 130kg quả sầu riêng đã đến thời kỳ thu hoạch, 10kg sầu riêng chưa đến thời kỳ thu hoạch, bán được số tiền 4.000.000 đồng. Sau khi bán được sầu riêng, Y Kh mang 04 giỏ nhựa đến cất giấu tại lô cao su gần trường bắn quân đội thuộc xã E, huyện C. Số tiền bán sầu riêng trộm cắp được cả hai chia nhau mỗi người 2.000.000 đồng. Y K đã tiêu xài cá nhân hết số tiền trên, còn Y Kh mang tiền về nhà cất giấu trong cuốn vở để trên tủ chén bát của gia đình. Đến ngày 23/7/2020, chị H’ D Ayŭn (là vợ của Y Kh Niê) sau khi biết việc chồng mình cất giấu tiền bán sầu riêng trộm cắp trong nhà nên đã tự nguyện mang đến giao nộp cho cơ quan công an.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 63 ngày 24/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện CưM’gar kết luận: 130kg quả sầu riêng Ri6 (đã đến thời kỳ thu hoạch) có giá 4.940.000 đồng; 10kg quả sầu riêng loại Ri6 (chưa đến thời kỳ thu hoạch) có giá 200.000 đồng. Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 5.140.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 82 ngày 09/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện CưM’gar kết luận: 01 xe mô tô biển kiểm soát 47L9-9965 giá trị còn lại 3.500.000 đồng.

Ngoài hành vi trộm cắp tài sản nêu trên, quá trình điều tra Y Kh Niê còn khai nhận một mình thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản khác, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 10 giờ ngày 14/6/2020, Y Kh Niê điều khiển xe mô tô 47L9-6695 mang theo 01 bao xác rắn đến rẫy trồng bơ xen cây cà phê của ông Y B Adrơng tại buôn K, xã C, huyện C để trộm cắp quả bơ. Tại đây, Y Kh Niê đã hái trộm được 50kg quả bơ sáp dẻo (thường gọi là bơ Trịnh Mười) đã đến thời kỳ thu hoạch và mang đến bán cho 01 người phụ nữ (không rõ nhân thân lai lịch) tại phường T, thành phố B được số tiền 380.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 81 ngày 08/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện CưM’gar kết luận: 50kg quả bơ sáp dẻo đã đến thời kỳ thu hoạch có giá 1.500.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 11 giờ ngày 17/7/2020, Y Kh Niê điều khiển xe 47L9- 9965 mang theo 01 bao xác rắn đi tìm tài sản trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Khi đi đến rẫy trồng sầu riêng và cà phê của anh Lê Văn L tại buôn K, xã E, huyện C phát hiện có sầu riêng tới thời kỳ thu hoạch. Y Kh vào trong rẫy và hái trộm được 40kg sầu riêng loại Ri6 (đã đến thời kỳ thu hoạch). Sau khi hái trộm được sầu riêng, Y Kh mang đến bán cho chị Hồ Thị Minh Đ được số tiền 1.200.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 81 ngày 08/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện CưM’gar kết luận: 40kg quả sầu riêng loại Ri6 đã đến thời kỳ thu hoạch có giá 1.360.000 đồng.

Bản cáo trạng số 65/CT-VKS ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CưM’gar truy tố bị cáo Y K Ayŭn và Y Kh Niê về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CưM’gar đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Y K Ayŭn và Y Kh Niê như nội dung cáo trạng và đưa ra các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Y K Ayŭn, Y Kh Niê phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Y K Ayŭn từ 09 đến 12 tháng tù; Xử phạt bị cáo Y Kh Niê từ 09 đến 12 tháng tù. Về biện pháp tư pháp: Đề nghị chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại 01 xe mô tô 47L9-9965 cho chị H’ D Ayŭn là chủ sở hữu hợp pháp; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 2.000.000 đồng của bị cáo Y Kh Niê và 1.750.000 đồng là ½ giá trị xe mô tô 47L9-9965; chấp nhận việc gia đình các bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại anh Phạm Thanh V số tiền 10.000.000 đồng.

Ý kiến người bào chữa cho các bị cáo: Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội trộm cắp tài sản là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội gây thiệt hại không lớn; các bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng và được bị hại bãi nại, các bị cáo là người dân tộc thiểu số gia đình làm nông trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CưM’gar, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CưM’gar, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 20/7/2020 đến 21/7/2020 tại Buôn Y, xã E, huyện C, Y K Ayŭn và Y Kh Niê đã có hành vi trộm cắp 250kg quả sầu riêng loại Ri6 của anh Phạm Thanh V tổng trị giá 9.140.000 đồng thì bị phát hiện xử lý.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Y K Ayŭn, Y Kh Niê đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản của bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an tại địa phương. Các bị cáo nhận thức được tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi chiếm đoạt trái pháp luật đều bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng do ý thức coi thường pháp luật, muốn có tiền tiêu xài nhưng lười biếng lao động nên các bị cáo đã trộm cắp tài sản của anh Phạm Thanh V có tổng giá trị 9.140.000 đồng. Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra.

[4] Trong vụ án này, bị cáo Y K Ayŭn, Y Kh Niê phạm tội mang tính chất đồng phạm giản đơn, cùng thực hiện tội phạm nên cần đánh giá vai trò của từng bị cáo để lượng hình cho phù hợp. Bị cáo Y K Ayŭn và bị cáo Y Kh Niê cùng rủ nhau đi trộm cắp sầu riêng, khi đến rẫy của anh V, bị cáo Y K là người dùng kìm cắt lưới hàng rào, bị cáo Y Kh trực tiếp trèo lên cây hái quả sầu riêng cho bị cáo Y K gom lại, sau đó cả hai bị cáo cùng đem bán để lấy tiền và chia đều để tiêu xài cá nhân. Xét về nhân thân, bị cáo Y K Ayŭn đã từng bị kết án về tội trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích) nhưng bị cáo không tu dưỡng làm ăn mà lại phạm tội; đối với bị cáo Y Kh Niê trước khi thực hiện 02 vụ trộm cắp cùng bị cáo Y K, bị cáo đã thực hiện 02 vụ trộm cắp bơ và sầu riêng để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Do đó, hình phạt đối với 02 bị cáo là ngang nhau là phù hợp.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Các bị cáo Y K Ayŭn, Y Kh Niê phạm tội 02 lần nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và gây thiệt hại không lớn, các bị cáo đã tác động gia đình bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại và được bị hại viết đơn bãi nại, các bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số nên trình độ nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Vì vậy cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước.

[6] Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân các bị cáo như đã nhận định trên, xét thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục răn đe các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.

[7] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, của người bào chữa về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[8] Trong vụ án này, đối với hành vi trộm cắp tài sản ngày 14/6/2020 và ngày 17/7/2020 của Y Kh Niê: Xét thấy Y Kh Niê chưa có tiền án tiền sự, hành vi trộm cắp tài sản không liên tục về mặt thời gian, giá trị tài sản bị chiếm đoạt chưa đủ mức truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Trộm cắp tài sản, do đó Công an huyện CưM’gar đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Y Kh Niê bằng hình thức phạt tiền, số tiền 1.500.000 đồng.

- Đối với bà Đỗ Thị Bình khi bán 04 cái giỏ nhựa cho các bị cáo, bà Bình không biết các bị cáo sử dụng vào mục đích trộm cắp tài sản nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

- Đối với bà Hồ Thị Minh Đào, khi mua sầu riêng từ các bị cáo, bà Đ không biết đó là tài sản trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

- Đối với chị H’ D Ayŭn, khi Y Kh Niê mang số tiền 2.000.000 đồng về cất giấu tại nhà, chị H’ D không biết nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

- Đối với người phụ nữ mua 50kg bơ của Y Kh Niê, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch, mặt khác quá trình điều tra Y Kh khai nhận khi bán 50kg bơ, người phụ nữ này không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp. [9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe mô tô 47L9-9965, nhãn hiệu Yamaha, loại xe Jupiter Mx, màu sơn đen, số máy 5B92006256, số khung RLCJ5B9206Y006256: quá trình điều tra xác định đây là tài sản chung của vợ chồng Y Kh Niê, H’ D Ayŭn. Khi Y Kh Niê sử dụng xe mô tô để đi trộm cắp tài sản, chị H’D không biết. Ngày 13/9/2020, chị H’D đã tự nguyện giao nộp số tiền 1.750.000 đồng (tương ứng với ½ giá trị xe mô tô 47L9-6695) nên ngày 14/9/2020 Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô trên cho chị H’ D Ayŭn. Xét việc trao trả trên là phù hợp cần chấp nhận. Đối với số tiền 1.750.000 đồng cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với xe mô tô 19H8-8270, quá trình điều tra xác định xe mô tô trên là của ông Nguyễn Huy Luân (sinh năm 1958, trú tại khu 10, xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ). Năm 2015, ông Luân bán xe mô tô cho hai người đàn ông (không rõ lai lịch) ở Phú Thọ. Quá trình mua bán không làm thủ tục sang tên đổi chủ. Đến khoảng tháng 3/2020, bà H’ N Ayŭn đưa tiền nhờ Y K mua lại xe mô tô trên của một người tên Đường, sau khi mua xe, bà H’ N sử dụng xe để đi lại. Ngày 20 và 21/7/2020 Y K sử dụng xe mô tô trên để đi trộm cắp tài sản bà H’ N không biết. Tuy nhiên, quá trình điều tra đến nay chưa xác định được nhân thân lai lịch của người đàn ông tên Đường nêu trên để làm rõ nguồn gốc xe mô tô 18H9-8270. Do đó Cơ quan điều tra đã tách xe mô tô trên ra khỏi vụ án, khi nào làm rõ nguồn gốc sẽ xử lý sau.

- Đối với số tiền 2.000.000 đồng là tiền Y Kh Niê có được do việc bán sầu riêng trộm cắp. Do đó cần tịch thu sung quỹ Nhà nước là phù hợp.

- Đối với các công cụ mà các bị cáo sử dụng để đi trộm cắp tài sản (chiếc kìm, giỏ nhựa…) cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thu giữ được. [10] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo Y K Ayŭn và Y Kh Niê đã tự nguyện bồi thường cho bị hại Phạm Thanh V số tiền 10.000.000 đồng, bị hại không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của gia đình các bị cáo và bị hại.

- Đối với ông Y B Adrơng và anh Lê Văn L không có yêu cầu bị cáo Y Kh Niê bồi thường gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Y K Ayŭn, Y Kh Niê phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Y K Ayŭn 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 25/7/2020.

- Xử phạt bị cáo Y Kh Niê 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 25/7/2020.

*Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46; 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô 47L9-9965 cho chị H’ D Ayŭn là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 2.000.000 đồng của bị cáo Y Kh Niê và số tiền 1.750.000 đồng (là ½ giá trị xe mô tô 47L9-9965).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/10/2020 giữa Công an huyện CưM’gar và Chi cục Thi hành án dân sự huyện CưM’gar).

* Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 46 Bộ luật hình sự; các Điều 584; 585; 586; 589 Bộ luật dân sự: Ghi nhận việc gia đình các bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng. Bị hại không yêu cầu gì thêm.

* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Y K Ayŭn, Y Kh Niê mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bào chữa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 74/2020/HS-ST ngày 02/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:74/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;