Bản án 74/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 74/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 249/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Ngô Thị Thu P, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Tổ A, khu phố P, phường T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Phạm Đức H, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Tổ A, khu phố P, phường T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Ngô Thị Thu P trình bày:

Bà và ông Phạm Đức H tự nguyện chung sống từ năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận kết hôn số 68 ngày 31-8-2015.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông H không chịu làm ăn, thiếu trách nhiệm với gia đình, kinh tế gia đình khó khăn, vợ chồng sống phụ thuộc vào gia đình chồng. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng nên đã ly thân từ tháng 10-2015 cho đến nay. Từ khi ly thân, ông H nghiện ma túy, vợ chồng không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay bà thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu tòa án xem xét cho bà được ly hôn với ông H.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Phạm Hoàng Thiên A1, sinh ngày 24-01-2011, Phạm Hoàng Thiên A2, sinh ngày 25-5-2012. Hiện các con sống với ông H và bà nội Lã Thị Ngọc N. Hiện bà chưa có chỗ ở ổn định nên khi ly hôn, bà giao hai con chung cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng, bà tự nguyện cấp dưỡng nuôi mỗi con 500.000 đồng/tháng (năm trăm ngàn đồng) cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là ông Phạm Đức H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và gửi đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt cho Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu phát biểu ý kiến:

Về pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, vi phạm quy định tại Điều 70 và Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, bị đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt ông H là phù hợp quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

- Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Ngô Thị Thu P khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con với ông Phạm Đức H nên Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại Khoản 1, Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn có nơi cư trú tại thị xã Phú Mỹ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về sự vắng mặt của bị đơn: ông H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt ông H là phù hợp quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về áp dụng pháp luật:

Sự kiện pháp lý xảy ra vào năm 2020, quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” nên áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để giải quyết.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở để xác định: Bà P và ông H tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn vào ngày 31-8-2015 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nên quan hệ hôn nhân giữa các bên là hợp pháp.

Về tình trạng hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, lời khai của bà P tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định giữa bà P và ông H có phát sinh mâu thuẫn vợ chồng.

Xét thấy, từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập các bên để tiến hành phiên hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông H vắng mặt và không có biện pháp gì để vợ chồng đoàn tụ, bỏ mặc tình cảm vợ chồng, không tham gia phiên tòa giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, mặc dù đã được Hội đồng xét xử động viên đoàn tụ gia đình nhưng bà P cương quyết yêu cầu ly hôn với ông H; ông H yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng bà P, ông H là có thật và đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của bà P đối với ông H.

[3.2] Về con chung:

Khi ly hôn, bà P có nguyện vọng giao hai con chung cho ông Phạm Đức H trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi.

Xét thấy, từ khi vợ chồng sống ly thân, các con chung sinh sống ổn định với cha là Phạm Đức H và bà nội - Lã Thị Ngọc N; các cháu được cho đi học đầy đủ; bản thân các cháu đều có nguyện vọng sống với cha sau khi cha mẹ ly hôn. ông H cũng có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng các con chung.

Để không gây xáo trộn về tâm lý đồng thời đảm bảo cho sự phát triển về tinh thần cũng như quyền lợi mọi mặt của các cháu, Hội đồng xét xử quyết định giao hai con chung là Phạm Hoàng Thiên A1 và Phạm Hoàng Thiên A2 cho ông H trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi cháu đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại Điều 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình. Ghi nhận sự tự nguyện của bà P cấp dưỡng nuôi mỗi con chung 500.000đ/tháng cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi

[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: bà P không yêu cầu nên không xem xét.

[4 ] Về án phí: bà P phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Thu P đối với ông Phạm Đức H về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị Thu P được ly hôn với ông Phạm Đức H. Về con chung: Giao cháu Phạm Hoàng Thiên A1, sinh ngày 24-01-2011 và Phạm Hoàng Thiên A2, sinh ngày 25-5-2012 cho ông Phạm Đức H trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi. Bà Ngô Thị Thu P cấp dưỡng nuôi mỗi con 500.000đ/tháng cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

2. Về án phí: Bà Ngô Thị Thu P phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001095 ngày 20-5-2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Bà Ngô Thị Thu P phải nộp thêm 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí.

3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 74/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:74/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;