Bản án 74/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 74/2019/HS-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Hữu Q, tên gọi khác: không có; sinh ngày 23/11/1963, tại thị xã Đ, tỉnh Q. Nơi cư trú: Tổ 2, khu V, phường M, thị xã Đ, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hữu C và bà Nguyễn Thị X (đều đã chết); vợ: Phạm Thị L, sinh năm 1965 và có 02 con, lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 07/4/2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

1. Anh Bùi Khắc Đ, sinh năm: 1964.

Địa chỉ: Tổ 3, khu B, phường P, thành phố U, tỉnh Q, vắng mặt.

2. Anh Triệu Thanh N, sinh năm: 1992.

Địa chỉ: Thôn N, xã D, huyện K, tỉnh Hải D, vắng mặt.

3. Chị Phạm Thị L, sinh năm: 1965.

Địa chỉ: Tổ 2, khu V, phường M, thị xã Đ, tỉnh Q, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 01/4/2019, Trần Hữu Q đón xe khách đến Hải Phòng để mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực đường Trần Nguyên Hãn thuộc thành phố Hải Phòng, Q gặp và mua của một người phụ nữ không quen biết 1.000.000đ ma túy loại “đá” và 2.000.000đ ma túy loại Heroine. Sau khi thỏa thuận xong người phụ nữ nhận tiền và đưa cho Q 02 túi nilon màu trắng cùng kích thước khoảng (4 x 8) cm, bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục; 02 túi nilon màu trắng, kích thước lần lượt khoảng (2 x 2) cm và (3 x 3) cm, bên trong đều chứa chất bột màu trắng; 03 túi nilon màu trắng cùng kích thước khoảng (1,5 x1,5) cm, bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng. Số ma túy này được Q mang về nhà cất giấu.

Tiếp đó, khoảng 08 giờ ngày 07/4/2019, Q đi xe mô tô đến ngã ba Núi Đèo thuộc huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng gặp và mua của một người đàn ông không quen biết ma túy, loại “đá” với giá 1.000.000đ, ma túy Heroine với giá 1.000.000đ và ma túy, loại “hồng phiến” với giá 200.000đ. Người này cầm tiền đi khoảng 05 phút sau, quay lại đưa cho Q: 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (4 x 8) cm và 01 túi nilon, kích thước khoảng (2,5 x 3) cm, bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (2,5 x 3) cm, bên trong chứa 03 viên nén hình trụ tròn màu đỏ, trên bề mặt in chữ “WY”; 02 túi nilon cùng kích thước khoảng (2,5 x 3) cm, bên trong đều chứa chất bột màu trắng, kiểm tra đúng là ma túy Q mang về nhà cất giấu. Khoảng 10 giờ cùng ngày, Y là bạn Q rủ đi sử dụng ma túy và hẹn gặp ở nhà nghỉ H, thuộc tổ 3, khu B, phường P, thành phố U, Q đã lấy một lượng ma túy đã cất giấu cho vào túi quần phía trước, bên phải rồi đi đến địa chỉ trên. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, Q vừa đến điểm hẹn thì bị Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an thành phố Uông Bí phối hợp với Công an phường Phương Đông phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số ma túy trên. Ngoài ra Tổ công tác còn thu giữ của Quảng: 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu vàng đen, kèm theo sim số 0986.310.204; 01điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen trắng, kèm sim số 0866.227.969; 01 căn cước công dân mang tên Trần Hữu Quảng và số tiền 1.800.000đ.

Hồi 17 giờ 30 phút, ngày 07/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí khám xét nơi ở của Q tại tổ 2, khu V, phường M, thị xã Đ, tỉnh Q, thu giữ toàn bộ số ma túy Q đã mua ngày 01/4/2019. Ngoài ra Cơ quan điều tra còn thu giữ: 01 hộp giấy, kích thước khoảng (20 x 10 x 10) cm, màu trắng; 01 cân điện tử màu đen, mặt cân in chữ Pocket Scale; 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (8 x 15) cm, bên trong chứa 10 túi nilon màu trắng cùng kích thước khoảng (4 x 8) cm; 01 ống thủy tinh dài khoảng 20 cm, một đầu thẳng, một đầu uốn cong có bầu tròn, trong bầu tròn dính chất dạng vết màu nâu; 01 ống thủy tinh dài khoảng 20 cm, một đầu thẳng, một đầu uốn cong có bầu tròn, trong bầu tròn không có gì và số tiền 28.000.000đ. Tại bản Kết luận giám định số: 302 ngày 11/4/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật kí hiệu M1, M2, M3 thu giữ của Trần Hữu Q gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng: M1, M2 có tổng khối lượng 1,157 gam, M3 có khối lượng 0,323 gam. Mẫu vật kí hiệu M4, M5 thu giữ của Trần Hữu Q gửi giám định là ma túy; loại Heroine, tổng khối lượng 0,61 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 303 ngày 11/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật kí hiệu từ M1 đến M4 thu giữ tại chỗ ở của Trần Hữu Q gửi giám định là ma túy; loại: Heroine, tổng khối lượng 0,925 gam. Mẫu vật kí hiệu từ M5 đến M8 thu giữ tại chỗ ở của Trần Hữu Q gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, trong đó M5, M6, M7 có tổng khốilượng 0,17 gam, M8 dạng vết không xác định được khối lượng.

Tại cáo trạng số: 70/CT-VKSUB ngày 03/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đúng như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 07/4/2019.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời, nên đề nghị HĐXX không áp dụng.

+ Đối với những đối tượng bán ma túy cho Q, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, nhân thân, nên không đề cập xử lý.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịchthu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số 302/GĐMT và 303/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, còn nguyên vẹn; 01 hộp giấy kích thước khoảng (20 x 10 x10) cm, màu trắng; 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (8x15)cm, bên trong chứa 10 túi nilon màu trắng cùng kích thước khoảng (4x8)cm; 02 ống thủy tinh dài khoảng 20cm, một đầu thẳng, một đầu uốn cong có bầu tròn; 01 cân điện tử màu đen, mặt cân in chữ Pocket Scale .

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia, màu đen trắng, cùng sim số 0866.227.969; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu vàng đen cùng sim số 0986.310.204; và số tiền 29.800.000đ, nhưng tạm giữ số tiền trên để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người chứng kiến, với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí lập hồi 10 giờ 40 phút, và hồi 17 giờ 30 phút cùng ngày 07/4/2019, với vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 30 phút, ngày 07/4/2019, tại nhà nghỉ H, thuộc tổ 3, khu B, phường P, thành phố U, tỉnh Q, Trần Hữu Q là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự có hành vi tàng trữ trái phép 2,09 gam ma túy, gồm 1,48 gam Methamphetamine và 0,61 gam Heroine, cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí khám xét nơi ở của Trần Hữu Q tại tổ 2, khu V, phường M, thị xã Đ, tỉnh Q, phát hiện thu giữ của Trần Hữu Q 1,095 gam ma túy, gồm 0,17 gam Methamphetamine và 0,925 gam Heroine. Tổng số ma túy Q tàng trữ là 3,185 gam, trong đó Methamphetamine là 1,65 gam, Heroine là 1,535 gam với mục đích để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt giữ, thu giữ vật chứng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm lây lan căn bệnh HIV/AIDS, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác trong cộng đồng, làm ảnh hưởng đến kinh tế của bản thân và gia đình, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức đầy đủ hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng với ý thức coi thường pháp luật, bị cáo đã cố ý phạm tội.

*Về tình tiết tăng nặng: không có.

* Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Các tình tiết khác của vụ án: Đối với 02 đối tượng bán ma túy cho Trần Hữu Q, Cơ quan điều tra không xác định được địa chỉ, lý lịch, nên không đề cập.

[5] Về xử lý vật chứng: Số ma túy Methamphetamine, thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên tịch thu tiêu hủy; 1 cân điện tử màu đen, mặt cân in chữ Pocket Scale; 01 hộp giấy, màu trắng; 01 túi nilon, bên trong chứa 10 túi nilon màu trắng cùng kích thước khoảng (4x8)cm; 02 ống thủy tinh không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia, màu đen trắng, cùng sim số 0866.227.969; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu vàng đen cùng sim số 0986.310.204 và số tiền 29.800.000đ, nhưng tạm giữ số tiền trên để đảm bảo thi hành án.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố

Bị cáo Trần Hữu Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ vào: Điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trần Hữu Q 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 07/4/2019.

2. Về xử lý vậ t chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 302, 303/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, còn nguyên vẹn; 01 hộp giấy màu, kích thước khoảng (20 x10 x 10) cm; 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (8 x 15) cm, bên trong chứa 10 vỏ túi nilon màu trắng kích thước khoảng (4 x 8) cm; 01 ống thủy tinh màu trắng dài 20 cm; 01 cân tiểu ly điện tử màu đen. Trả lại cho bị cáo 02 chiếc điện thoại di động, 01 chiếc Nokia, màu đen trắng, 01 chiếc Samsung màu vàng đen kèm theo sim gắn trong máy; và số tiền 29.800.000đ, nhưng tạm giữ số tiền trên để đảm bảo thi hành án.

(Số vật chứng, tài sản trên có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13 tháng 6 năm 2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh). 

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Hữu Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 74/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;