Bản án 74/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 74/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019, đối với:

- Các bị cáo:

1. Tiêu Kiến Q (Xiao Jian Q), sinh ngày 06/9/1986 tại Trung Quốc. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn H, trấn G, thành phố L, tỉnh Đ, Trung Quốc; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Hán; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Trung Quốc; con ông Tiêu Kim T và bà Phạm Mỹ Đ; có vợ là Ôn L và 02 con; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn từ ngày 03/6/2019 đến nay; có mặt.

2. Tăng Phồn V (Zeng Fan W), sinh ngày 10/02/1988 tại Trung Quốc. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn G, trấn T, khu Đ, thành phố T, Trung Quốc; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Hán; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Trung Quốc; con ông Tăng Khánh Q và bà Hoàng Thường P; có vợ là Liễu H và 01 con; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn từ ngày 01/6/2019 đến nay; có mặt.

3. Viên Hồng K (Yuan Hong K), sinh ngày 07/02/1986 tại Trung Quốc. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn Q, xã L, huyện V, thành phố T, Trung Quốc; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Hán; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Trung Quốc; con ông Viên Tự X và bà Lý Bang P; có vợ là Lưu D và 01 con; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn từ ngày 01/6/2019 đến nay; có mặt.

- Người phiên dịch: Ông Dương Doãn X, cán bộ Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn Quốc T, sinh năm 1983. Trú tại: Phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1991. Trú tại: Thôn C, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tiêu Kiến Q có quen biết Tăng Phồn V. Cuối tháng 5/2019 Tiêu Kiến Q rủ Tăng Phồn V sang Việt Nam trộm cắp xe mô tô mang về Trung Quốc tiêu thụ, mỗi xe trộm được Tiêu Kiến Q sẽ trả cho Tăng Phồn V số tiền 3.000 CNY và bảo Tăng Phồn V rủ thêm người cùng đi. Tăng Phồn V đồng ý. Ngày 24/5/2019, Tăng Phồn V nói chuyện qua Wechat với Viên Hồng K hẹn gặp nhau tại B, Q, Trung Quốc để nói chuyện làm ăn, Viên Hồng K đồng ý. Trước khi đi, Tăng Phồn V chuẩn bị một số vam và chìa khóa xe mô tô các loại sử dụng để phá khóa và cho vào một chiếc túi nilon màu vàng. Tiêu Kiến Q bảo Tăng Phồn V mang túi đồ phá khóa nói trên gửi chuyển phát nhanh trước đến nhà người quen của Tiêu Kiến Q ở thị trấn B để khi nào sang Việt Nam Tiêu Kiến Q sẽ lấy mang theo.

Ngày 27/5/2019, Viên Hồng K, Tăng Phồn V và Ôn Ứng K (bạn của Tiêu Kiến Q) gặp nhau tại thị trấn B. Trong lúc ăn cơm, Tiêu Kiến Q thỏa thuận thuê Tăng Phồn V, Viên Hồng K sang Việt Nam lấy trộm xe mô tô và giao cho Tiêu Kiến Q tại thị trấn Đ rồi Tiêu Kiến Q sẽ tự thuê người đưa xe sang Trung Quốc bán, mọi chi phí đi lại do Tiêu Kiến Q chi trả, mỗi xe trộm được Tiêu Kiến Q sẽ trả cho Tăng Phồn V và Viên Hồng K khoảng 3000 NDT tùy theo chất lượng của xe. Tuy Ôn Ứng K cùng sang Việt Nam nhưng để giải quyết công việc riêng nên Ôn Ứng K không tham gia vào việc bàn bạc việc trộm xe của 3 bị cáo.

Ngày 28/5/2019 Tiêu Kiến Q, Tăng Phồn V, Viên Hồng K, Ôn Ứng K đón xe taxi đến khu vực cửa khẩu H (phía bên Trung Quốc). Tiêu Kiến Q lấy chiếc túi đựng dụng cụ phá khóa được Tăng Phồn V gửi lại nhà người quen của Tiêu Kiến Q trước đó đưa lại cho Tăng Phồn V để cho vào ba lô du lịch của Viên Hồng K. Tăng Phồn V, Ôn Ứng K nhập cảnh vào Việt Nam qua Cửa khẩu H rồi đi xe đến bãi xe X chờ Viên Hồng K, còn Viên Hồng K do không có hộ chiếu nên Tiêu Kiến Q đã nhờ một người phụ nữ Trung Quốc đưa Viên Hồng K theo đường mòn sang Việt Nam và được Âu Viết T(sinh năm 1994, trú tại xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn) đón, đưa ra bãi xe X gặp Tiêu Kiến Q, Tăng Phồn V, Ôn Ứng K. Sau đó cả bọn đón xe taxi đi về thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, Tiêu Kiến Q gọi điện thoại hẹn gặp người phụ nữ Trung Quốc tên là Lẻn tại đây và thỏa thuận thuê bà Lẻn vận chuyển xe mô tô cũ từ Việt Nam sang Trung Quốc theo đường mòn, mỗi xe giá 800 NDT và thống nhất với Tăng Phồn V sẽ giao xe tại đường T, khu vực gần sân bóng Đ. Ôn Ứng K ngồi uống nước cùng nhưng không được tham gia trao đổi gì. Sau đó Tăng Phồn V và Viên Hồng K đến khách sạn N ở thị trấn Đ nghỉ còn Tiêu Kiến Q và Ôn Ứng K đến một khách sạn khác gần đó. Thuê phòng nghỉ xong, cả bốn người đón xe taxi đi xuống thành phố L, đến cửa hàng xe máy - xe điện P tại số phường V, thành phố L mua chiếc xe mô tô cũ nhãn hiệu HONDA LEAD, biển kiểm soát 12D1-145.93 với giá 26.000.000 đồng. Tăng Phồn V đứng tên để ký giấy mua bán, Tiêu Kiến Q trả tiền mua xe, sau khi mua xong Tăng Phồn V và Viên Hồng K điều khiển xe về khách sạn N, còn Tiêu Kiến Q và Ôn Ứng K đi xe taxi về phòng nghỉ đã thuê trước đó.

Sáng ngày 29/5/2019, Tăng Phồn V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12D1-145.93 chở Viên Hồng K mang theo 02 vam phá khóa và 01 chìa khóa xe mô tô đi xuống thành phố Lạng Sơn để trộm xe mô tô. Hồi 10 giờ 55 phút cùng ngày, Tăng Phồn V điều khiển xe đến cổng Trung tâm Hội chợ Thương mại L thì dừng lại ở trước cổng. Tăng Phồn V ngồi trên xe cảnh giới còn Viên Hồng K xuống xe đi lên vỉa hè, sử dụng vam để phá khóa chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH, màu sơn đỏ đen, Biển kiểm soát 29T1-337** đang dựng trên vỉa hè gần đó (của anh Nguyễn Quốc T). Sau khi lấy được xe, Viên Hồng K điều khiển chiếc xe vừa trộm được đi theo chiếc xe Tăng Phồn V điều khiển về thị trấn Đ. Trên đường di chuyển, Tăng Phồn V nhiều lần điện thoại cho Tiêu Kiến Q để liên hệ bàn giao xe trộm cắp, còn Viên Hồng K đã vứt 02 vam phá khóa vào bụi cây ven đường gần thị trấn Đ. Khi đến địa điểm giao nhận xe tại khu vực gần sân bóng Đ, Viên Hồng K đỗ xe mô tô vừa trộm được lại, dựng ở lề đường và để chìa khóa ở dưới gầm xe, còn Tăng Phồn V gọi điện cho Tiêu Kiến Q lên nhận xe. Tăng Phồn V, Viên Hồng K đi về khách sạn N. Tiêu Kiến Q đi bộ từ nhà nghỉ lên sân bóng Đ để kiểm tra xe, đồng thời gọi điện cho bà Lẻn bảo cho người đến nhận xe. Bà Lẻn gọi điện nhờ Hoàng Văn T ra khu vực sân bóng Đ nhận xe và đưa lên khu vực biên giới để giao cho bà Lẻn. Hoàng Văn T đi đến khu vực sân bóng Đ và gọi điện vào số điện thoại của Tiêu Kiến Q để nhận diện; sau đó Hoàng Văn T liên lạc với bà Lẻn xác nhận Tiêu Kiến Q là người bàn giao xe. Lúc này Tăng Phồn V điều khiển xe mô tô 12D1-145.93 chở Viên Hồng K quay lại thì Tiêu Kiến Q bảo xe nổ to nên chỉ trả công cho Tăng Phồn V và Viên Hồng K 2.500 NDT. Sau đó Hoàng Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29T1-337** về nhà còn Tiêu Kiến Q, Tăng Phồn V, Viên Hồng K đi về nơi nghỉ trọ. Chiều ngày 29/5/2019, Tăng Phồn V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12D1-145.93 chở Viên Hồng K đi trả xe cho Tiêu Kiến Q thì bị lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Cao Lộc ra tín hiệu kiểm tra, Tăng Phồn V điều khiển xe bỏ chạy vào đường T, thị trấn Đ; trên đường bỏ chạy Viên Hồng K lấy túi nilon màu vàng (đựng công cụ phá khóa) từ trong ba lô du lịch vứt ra bên phải đường. Lực lượng Cảnh sát giao thông truy đuổi đến khu vực gầm cầu vượt ga Đ thì dừng được phương tiện. Qua kiểm tra Tăng Phồn V không xuất trình được giấy phép lái xe, Viên Hồng K không có giấy tờ nhập cảnh, Tổ công tác đã đưa Tăng Phồn V và Viên Hồng K về Đồn Công an thị trấn Đ để xác minh, giải quyết. Tăng Phồn V gọi điện báo cho Tiêu Kiến Q thì Tiêu Kiến Q và Ôn Ứng K đi về cửa hàng xe máy P gặp chủ cửa hàng mua xe mô tô biển kiểm soát 12D1-145.93 rồi đi lên Đồn Công an thị trấn Đ. Tổ Công tác Đồn Công an thị trấn Đ đã lập biên bản sự việc và bàn giao Tiêu Kiến Q, Tăng Phồn V, Viên Hồng K, Ôn Ứng K cùng tang vật cho phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Lạng Sơn tiếp nhận giải quyết. Phòng Cảnh sát Hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Lạng Sơn xác minh làm rõ hành vi phạm tội của Tiêu Kiến Q, Viên Hồng K, Tăng Phồn V như trên.

Nghi ngờ là tài sản phạm tội, ngày 04/6/2019 Hoàng Văn T đã mang xe đến giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn.

Tại Biên bản định giá tài sản số 96/ĐGTSTT ngày 30/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Lạng Sơn xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH BKS 29T1-337** có giá trị 51.600.000 đồng. Sau khi tạm giữ được xe mô tô 29T1-337**, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã yêu cầu định giá lại tài sản. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 1145/KL-HĐĐGTS ngày 14/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự tỉnh Lạng Sơn xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH 150i, màu sơn đỏ đen, BKS 29T1-337** có giá trị 50.533.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 93/CT-VKS-P3 ngày 31/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã truy tố các bị cáo Tiêu Kiến Q, Viên Hồng K, Tăng Phồn V phạm tội Trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa các bị cáo Tiêu Kiến Q, Tăng Phồn V, Viên Hồng K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Tiêu Kiến Q, Viên Hồng K, Tăng Phồn V phạm tội Trộm cắp tài sản; áp dụng điểm c, khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Tiêu Kiến Q từ 30 đến 36 tháng tù, xử phạt bị cáoViên Hồng K, Tăng Phồn V từ 24 - 30 tháng tù. Trục xuất các bị cáo khỏi lãnh thổ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi thi hành xong hình phạt tù. Về bồi thường thiệt hại, bị hại là anh Nguyễn Quốc T đã nhận lại xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH 150i biển kiểm soát 29T1-337** và không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Về xử vật chứng: Đề nghị tịch hóa giá sung quỹ Nhà nước 03 điện thoại di động và 01 xe máy nhãn hiệu HONDA LEAD (kèm theo giấy tờ có liên quan) do các bị cáo mua sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội; trả lại cho các bị cáo giấy tờ tùy thân, 6.000NDT và 01 điện thoại. Các vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội không còn giá trị sử dụng đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trong lời nói sau cùng, các bị cáo Tiêu Kiến Q, Tăng Phồn V, Viên Hồng K đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự, các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị hại Nguyễn Quốc T và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Hoàng Văn T đã có đơn đề nghị vắng mặt trong tất cả các phiên xét xử của Tòa án và cam kết không có bất kỳ ý kiến khiếu nại, kháng cáo đối với các Bản án, quyết định của Tòa án. Căn cứ khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tòa án chấp nhận yêu cầu xin xét xử vắng mặt của bị hại, người có quyền với và nghĩa vụ liên quan đến vụ án và tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Nguyễn Quốc T và anh Hoàng Văn T.

[3] Xét, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với Kết luận giám định và các tài liệu thu giữ trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có căn cứ để kết luận: Ngày 28/5/2019, Tiêu Kiến Q, Tăng Phồn V, Viên Hồng K từ Trung Quốc đi sang Việt Nam để trộm cắp xe máy nhằm đưa sang Trung Quốc tiêu thụ. Tiêu Kiến Q, Tăng Phồn V, Viên Hồng K thỏa thuận với nhau Viên Hồng K và Tăng Phồn V đi tìm kiếm xe máy cũ để trộm cắp sau đó giao lại cho Tiêu Kiến Q để đem đi tiêu thụ, mỗi xe Tiêu Kiến Q trả công cho Tăng Phồn V và Viên Hồng K 3.000NDT tùy theo chất lượng của xe. Ngày 29/5/2019, Tăng Phồn V điều khiển xe máy chở Viên Hồng K từ thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn xuống thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, khi đi đến khu vực cổng Trung tâm Hội chợ thương mại Lạng Sơn, Tăng Phồn V dùng xe và ngồi trên xe cảnh giới, Viên Hồng K tiếp cận và sử dụng vam phá khóa mang theo để phá khóa vá trộm chiếc xe máy HONDA SH 150i biển kiểm soát 29T1-337** của anh Nguyễn Quốc T. Sau khi lấy được xe, Tăng Phồn V và Viên Hồng K điều khiển xe về thị trấn Đ và bàn giao lại cho Tiêu Kiến Q để đưa sang Trung Quốc tiêu thụ. Giá trị của chiếc xe HONDA SH 150i biển kiểm soát 29T1-337** mà các bị cáo trộm cắp là 50.533.000 đồng. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và thuộc trường hợp nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người có thể chất bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi nên các bị cáo đã cố ý thức hiện tội phạm. Do đó, khi lượng hình cần có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra, cần phải xử tù giam để cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Để có mức hình phạt thỏa đáng đối với bị cáo Hội đồng xét xử đánh giá như sau:

[5] Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Tiêu Kiến Q là người rủ rê, lôi kéo bị cáo Tăng Phồn V và Viên Hồng K cùng thực hiện hành vi phạm tội, chuẩn bị phương tiện di chuyển và là người nhận tài sản phạm tội từ các bị cáo Tăng Phồn V, Viên Hồng K. Bị cáo Tăng Phồn V là người chuẩn bị dụng cụ là các vam, chìa khóa và làm nhiệm vụ cảnh giới còn bị cáo Viên Hồng K là người giúp sức tích cực cho nên vai trò của bị cáo Tiêu Kiến Q cao hơn so với bị cáo Viên Hồng K và Tăng Phồn V.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Tiêu Kiến Q, Viên Hồng K, Tăng Phồn V đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra các bị cáo không còn tình tiết giảm nhẹ nào khác.

[9] Khi lượng hình cần có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra. Tuy nhiên cũng cần xem xét tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho các bị cáo giúp các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật để yên tâm cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.

[10] Về bồi thường thiệt hại: Xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH 150i biển kiểm soát 29T1-337.68 đăng ký tên Phạm Đức T, sinh năm 1973 trú tại quận H, thành phố Hà Nội. Tháng 9/2015 ông Phạm Đức T bán cho anh Nguyễn Quốc T với giá 86.000.000 đồng (tám mươi sáu triệu đồng), tuy nhiên chưa làm thủ tục sang tên, xác định anh Nguyễn Quốc T là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe. Ngày 21/8/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả xe 29T1-337** cho anh Nguyễn Quốc T, anh Nguyễn Quốc T không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về hình phạt bổ sung: Qúa trình điều tra xác định các bị cáo là người nước ngoài không có tài sản, không đủ điều kiện để đảm bảo thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo tuy nhiên cần trục xuất xác bị cáo ra khỏi lãnh thổ Việt Nam sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

[12] Về vật chứng của vụ án: 01 xe máy biển kiểm soát 12D1- 145.93 cùng giấy tờ liên quan và 03 điện thoại thu giữ của các bị cáo là phương tiện các bị cáo sử dụng vào hành vi phạm tội nên cần tịch thu hóa giá, sung quỹ Nhà nước; 03 mũ bảo hiểm, 11 chìa khóa, 01 cờ lê, 02 bộ áo mưa, 01 giá đỡ điện thoại; 08 thanh kim loại, 02 áo phông là các vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy; 02 hộ chiếu, 01 giấy thông hành, 03 thẻ căn cước công dân, 01 điện thoại OPPO và 6.000NDT thu giữ của các bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho các bị cáo.

[13] Đối với Ôn Ứng K qua điều tra xác định mục đích sang Việt Nam là để thực hiện một số công việc cá nhân ở Hà Nội, do đang trong thời gian đợi công việc nên Ôn Ứng K đi cùng Tiêu Kiến Q. Trong các lần trao đổi giữa Tiêu Kiến Q, Tăng Phôn Vĩ, Viên Hồng K, Lẻn về việc trộm cắp xe máy và đưa xe máy sang Trung Quốc tiêu thụ cũng như trong việc thực hiện hành vi trộm cắp xe máy, Ôn Ứng K đều không tham gia nên xác định Ôn Ứng K không là đồng phạm trong vụ án này.

[14] Đối với người phụ nữ Trung Quốc giúp Viên Hồng K sang Việt Nam theo đường mòn và người phụ nữ Trung Quốc tên Lẻn, Cơ quan điều tra đã xác minh, do không xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa làm rõ được vai trò trong vụ án.

[15] Đối với Âu Viết T, khi bà Len thuê vận chuyển xe mô tô cũ qua biên giới, Âu Viết T không nhận lời. Đối với Hoàng Văn T là người được bà Lẻ thuê và đã nhận chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29T1-337.68, kết quả điều tra xác định Hoàng Văn T không biết xe đó do phạm tội mà có và sau đó đã mang xe đến giao nộp cho Cơ quan điều tra, vì vậy không có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự với Âu Viết T và Hoàng Văn T.

[16] Các bị cáo bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

[17] Các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; 38; 50; 58; 47 Bộ luật Hình sự 2015; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Tiêu Kiến Q (Xiao Jian Q), Tăng Phồn V (Zeng Fan W), Viên Hồng K (Yan Hong Kui) phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Tiêu Kiến Q 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 03/6/2019.

- Xử phạt bị cáo Viên Hồng K 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 01/6/2019.

- Xử phạt bị cáo Tăng Phồn V 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 01/6/2019.

Trục xuất các bị cáo Tiêu Kiến Q, Viên Hồng K, Tăng Phồn V khỏi lãnh thổ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi thi hành xong hình phạt tù.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy:

- 03 (ba) mũ bảo hiểm xe mô tô, gồm 01 mua thời trang có lưỡi trai màu xanh tím có chữ ADIDAS, 01 mũ thời trang có lưỡi chai màu đen có chữ DUCATI, 01 mũ có màu kẻ dọc màu trắng đỏ có dòng chữ AMBY POWER SPEED.

- 07 (bảy) chìa khóa trên có chữu HONDA.

- 01 (một) cà lê tròn bằng kim loại màu trắng hình "L" có ký hiệu 10CR.V.MO.

- 02 (hai) bộ áo mưa mỏng màu xanh và tím.

- 01 (một) giá đỡ điện thoại di động có ghi chữ ESOVER.

- 05 (năm) thanh kim loại có diện 11cm x 0,8 cm, các đầu thanh kim loại được mài nhọn dài 4,5cm, đầu cán có hình lục giác dài 6,5cm.

- 01 (một) thanh kim loại hình chữ "L" có chiều dài 08cm, trên có khắc chữ "WR" một đầu còn lại rỗng bên trong có hình lục giác.

- 01 (một) thanh kim loại hình chữ "T" dài 15cm, phần thanh ngang dài 10cm, các đầu được mài nhọn.

- 01 (một) thanh kim loại màu bạc hình trụ dài 1,2cm x 04cm.

- 04 (bốn) chìa khóa trên phần nhựa màu đen có chữ HONDA.

- 01 (một) chiếc áo phông dài tay màu tím than đã qua sử dụng, có dòng kẻ hình vuông màu trắng.

- 01 (một) áo phông ngăn tay màu đen, cổ áo hình trái tim, bên ngực trái có in hình ba con chim.

Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động đã sử dụng hiệu XIAOMI màu xanh, số IMEI 1: 867194040546510; số IMEI 2: 867194040546528, bên trong có 01 (một) sim, máy cũ đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6S Plus màu hồng, số IMEI: 358611070793468, bên trong có 01 (một) sim điện thoại, máy cũ đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE màu vàng, số IMEI: 354400061860775, bên trong có 01 (một) sim điện thoại, máy cũ đã qua sử dụng.

- 01 (một) xe mô tô đã sử dụng hiệu HONDA LEAD, màu đỏ - đen, BKS 12D1- 149.93, số máy: JF45E0504341, số khung: 4518FY002181; 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô số 001660 tên chủ xe Mai Phương A, địa chỉ thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 22/5/2015; 01 (một) giấy biên nhận bán xe tại cửa hàng xe máy, xe điện Phương Nam.

Trả lại cho bị cáo Tiêu Kiến Q: 01 hộ chiếu màu nâu tên Xiao Jian Q; có số EG2962194; 01 (một) thẻ căn cước công dân có số 441522198609062434 mang tên Xiao Jian Q; 01 (một) phong bì được niêm phong dán kín, có 02 dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn có chữ ký của Ngô Văn Đ, các mép dán được niêm phong bằng các hình dấu của Công an phường C, thành phố Lạng Sơn, có chữ ký cùng tên của các thành phần tham gia niêm phong trên phong bì có tên "Tiêu Kiến Q". Bên trong phong bì có 6000NDT (sáu nghìn nhân dân tệ) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, không kiểm tra được số IMEI, bên trong có 01 sim điện thoại, máy cũ đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Tăng Phồn V: 01 (một) thẻ căn cước công dân có số 500225198802101114 mang tên Zeng Fan W; 01 hộ chiếu màu nâu mang tên Zeng Fan W có số: EB7830424; 01 giấy thông hành màu xanh có số RO4831295 tên Zeng Fan W.

Trả lại cho bị cáo Viên Hồng K: 01 (một) thẻ căn cước công dân Trung Quốc có số 500237198602070371 mang tên Yuan Hong K.

(Các vật chứng trên được thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/11/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn và Cục thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Các bị cáo Tiêu Kiến Q, Tăng Phồn V, Viên Hồng K phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung qũy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 22/11/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 74/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:74/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;