Bản án 74/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 74/2019/HS-ST NGÀY 06/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 74/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/QĐXXST-HS ngày 26-8-2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Kim Ph, sinh năm 1996, tại Bà Rịa-Vũng Tàu; Giới tính: Nữ; Nơi đăng ký HKTT: Không đăng ký. Chổ ở hiện nay: Ấp Hải Sơn, xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn) 3/12. Bị cáo là con duy nhất trong gia đình. Con ông: Nguyễn Thanh T, sinh năm 1976 và bà Võ Thị Phương T, sinh năm 1976. Có chồng: Nguyễn Văn Vũ L, sinh năm 1994. Con: 02 con lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2017. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị hại: Bà Hồ Thị Lệ X (Tên gọi khác P), sinh năm 1968; địa chỉ: Tổ 14, ấp Hải Sơn, xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1955; Trú tại: xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Có mặt.

2. Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1974; Trú tại: xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Vắng mặt.

3. Bà Hoàng Bích L, sinh năm 1966; Trú tại: huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Kim Ph và bà Hồ Thị Lệ X là hàng xóm chung dãy nhà trọ tại ấp Hải Sơn, xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Vào khoảng 08 giờ ngày 28/3/2019, P đi bộ từ phòng trọ của mình ra quán nước mía của bà X(quán nước mía đầu dãy nhà trọ) để mua nước mía. Tại đây, bà X nhờ P trông coi quán để đi giao nước mía cho khách, P đồng ý. Lúc này, P thấy chùm chía khóa phòng trọ của bà X trên nóc tủ để ti vi nên P lấy chùm chía khóa cất giấu vào trong túi quần và tiếp tục đợi bà X đi giao nước về. Khoảng 20 phút sau, P đi về phòng trọ của mình rồi đi qua phòng của bà X, dùng chùm chìa khóa lấy được tại quán nước mở cửa phòng của bà X đi vào bên trong. P nhìn thấy bên trái phòng có 01 cái tủ sắt(cửa tủ không khóa) nên P đi đến mở tủ và phát hiện bên trong tủ có 01 túi da màu đen, bên trong túi da có 01 tủi vải nhỏ màu đỏ đựng 03 chiếc nhẫn và 01 vòng đeo tay bằng kim loại màu vàng, P liền lấy số nhẫn và vòng đeo tay cất giấu vào túi quần của mình. Sau đó, P đóng cửa tủ và khóa cửa phòng trọ lại như ban đầu rồi bỏ đi về phòng trọ của mình. P thuê xe ôm đi đến tiệm vàng“Bích Liên” thuộc ấp Phước Lộc, xã Phước Hưng, huyện Long Điền bán 01 chiếc vòng đeo tay được số tiền 5.150.000đ. Số tiền trên, P cho bà Tuệ(bà nội) 1.000.000đ, trả nợ cho ông Tâm(bác ruột) 1.500.000đ, số còn lại 2.150.000đ P tiêu xài cá nhân. Số nhẫn còn lại P cất giấu trong phòng trọ của mình. Sau khi phát hiện mất tài sản bà X đến Cơ quan Công an TT Long Hải trình báo sự việc. Ngày 29/3/2019, P đến Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản. Tại Cơ quan điều tra, P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại phiếu kết quả thử nghiệm số 01/02/TNV, số 01/03/TNV và số 01/04/TNV cùng ngày 04/5/2019 của Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết luận 03 nhẫn vàng như sau: 01 chiếc nhẫn hàm lượng vàng(98,00 ± 0,20%) khối lượng 7,4944g; 01 chiếc nhẫn hàm lượng vàng(97,54 ± 0,12%) khối lượng 7,5007g; 01 chiếc nhẫn hàm lượng vàng(97,40 ± 0,15%) khối lượng 18,7430g.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 65/KL.HĐĐG ngày 07/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Long Điền kết luận: Giá trị của 03 chiếc nhẫn vàng là 31.378.919đ và chiếc vòng đeo tay vàng là 6.150.000đ, tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt ngày 28/3/2019 là 37.528.919đồng.

Tại Bản kết luận Giám định Pháp y về độ tuổi số 2637/C09B ngày 28/5/2019 của Phân viện KHHS tại TP Hồ Chí Minh kết luận về độ tuổi của Nguyễn Thị Kim Ph: Qua quá trình khám lâm sàng và kết quả cận lâm sàng. Xác định tại thời điểm giám định(tháng 5/2019) của Nguyễn Thị Kim Ph có thể chất và hệ thồng xương đã phát triển hoàn thiện như người trưởng thành, có độ tuổi: trên 19 năm.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo P: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; người phạm tội đầu thú.

Vật chứng thu giữ và xử lý: 01 chiếc nhẫn kim loại màu vàng, bên mặt trong ghi chữ “BICH LIEN 20 98%”; 01 chiếc nhẫn kim loại màu vàng, bên mặt trong ghi chữ “HIEN NGUYEN 2 CHI 98%”; 01 chiếc nhẫn kim loại màu vàng, bên mặt trong ghi chữ “VO HUNG CMBARIA 50 98%”; Tổng số tiền 5.000.000 đồng(do P nộp 2.500.000đ; Ông Nguyễn Thanh Tâm nộp 1.500.000 đồng và bà Nguyễn Thị Tuệ nộp 1.000.000 đồng). Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả cho chủ sở hữu là bà Hồ Thị Lệ X.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận được 03 chiếc nhẫn vàng và số tiền 5.000.000 đồng. Bà X yêu cầu bị cáo P bồi thường thêm số tiền 3.000.000 đồng.

Từ những tình tiết nêu trên, tại bản cáo trạng số 77/CT-VKS ngày 08 tháng 8 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền đã truy tố Nguyễn Thị Kim Ph, phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo P khai nhận Bản cáo trạng số 77 ngày 08/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền, truy tố bị cáo đúng quy định của hành vi mà bị cáo đã thực hiện vào ngày 28/3/2019 nên không có ý kiến khiếu nại hay thắc mắc. Bị cáo xin nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Tại phiên tòa: Bị hại bà Hồ Thị Lệ X yêu cầu bị cáo bồi thường thêm số tiền 1.150.000 đồng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền giữ quyền công tố kết luận: giữ nguyên quan điểm truy tố theo cáo trạng số 77 ngày 08/8/2019. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Kim Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim Ph từ 12 đến 16 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 584, 585 và 586 Bộ luật dân Sự. Ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và bị hại.

Bị hại-bà X xin giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

Lời nói cuối cùng của bị cáo: Bị cáo P xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Long Điền, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã đủ cơ sở kết luận như sau: Khoảng 08 giờ sáng 28/3/2019, bị cáo có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc nhẫn hàm lượng vàng (98,00 ± 0,20%) khối lượng 7,4944g, trị giá: 7.034.743 đồng; 01 chiếc nhẫn hàm lượng vàng(97,54 ± 0,12%) khối lượng 7,5007g, trị giá: 7.000.653 đồng; 01 chiếc nhẫn hàm lượng vàng(97,40 ± 0,15%) khối lượng 18,7430g, trị giá: 17.343.523 đồng và 01 chiếc vòng đeo tay loại vàng 18K, khối lượng 03 chỉ, trị giá: 6.150.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt là: 37.528.919 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu hành tội: “Trộm cắp tài sản” nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền truy tố bị cáo theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo phạm tội với ý thức cố ý, lợi dụng sự sơ hở của bà X và trộm cắp tài sản của bà. Mặc dù bị cáo biết trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm thể hiện sự coi thường pháp luật của Nhà nước. Vì cậy cần xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Tuy nhiên, cần xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau: Sau khi phạm tội nhận thức được hành vi sai trái của mình đã đến Cơ quan có thẩm quyền đầu thú; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tự nguyện giao nộp lại một phần tài sản trộm cắp được; hành vi phạm tội bột phát nhất thời và từ nhỏ đến nay bị cáo được bà nội nuôi, không có giấy tờ pháp lý về nhân thân của mình, hiện đang nuôi 02 con nhỏ nên áp dụng tình tiết quy định tại điểm i và s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về vật chứng: Công an huyện Long Điền đã xử lý theo quyết định xử lý vật chứng số 33/QĐ-CAH-ĐTTH ngày 20/6/2019 và số 40/QĐ-CAH-ĐTTH ngày 22/7/2019 nên không xem xét.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại-bà Hồ Thị Lệ X xác nhận bị mất 03 chiếc nhẫn đã nhận lại (theo quyết định xử lý vật chứng số 33/QĐ-CAH- ĐTTH ngày 20/6/2019 và số 40/QĐ-CAH-ĐTTH ngày 22/7/2019) và 01 chiếc lắc do bị cáo đã bán giá trị định giá là: 6.150.000 đồng, bà X nhận được 5.000.000 đồng nên yêu cầu bị cáo bồi thường thêm số tiền 1.150.0000 đồng, bị cáo đồng ý. Xét thấy: sự thỏa thuận của bị cáo đúng quy định tại Điều 589 Bộ luật dân sự nên ghi nhận.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải nộp 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Kim Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i và s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Thị Kim Ph 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2- Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự. Điều 589 Bộ luật Dân sự. Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo(Nguyễn Thị Kim Ph) bồi thường cho bà Hồ Thị Lệ X số tiền 1.150.000đ (Một triệu một trăm năm mươi ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật Dân sự.

3- Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000đ(Hai trăm ngàn đồng) 4- Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Riêng đương sự vắng mặt quyền kháng cáo tính từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 74/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:74/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;