TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 74/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/11/2019 VỀ LY HÔN GIỮA ANH N VÀ CHỊ Y
Ngày 20 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 284/2019/TLST-HNGĐ, ngày 22 tháng 9 năm 2019 về việc: "Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2019/QĐXX-ST ngày 21 tháng 10 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 31/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 05-11-2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Lê Văn N, sinh năm 1992 (có mặt).
Địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện Hưng, tỉnh Thái Bình
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Hải Y, sinh năm 1992 (vắng mặt)
Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã V, huyện Hưng, tỉnh Thái Bình
Địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Lê Văn N trình bày:
Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Hải Y kết hôn cùng nhau do đôi bên tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại trụ sở Uỷ ban nhân dân (viết tắt UBND) xã V, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vào ngày 25-02-2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống, hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, không bảo ban được nhau trong cuộc sống hàng ngày, vợ chồng hay xảy ra cãi nhau. Mâu thuẫn trầm trọng nhất là vào cuối năm 2018, đầu năm 2019, vợ chồng xảy ra cãi nhau, chị Y đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở xã T để sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Tòa án nhân dân (viết tắt là TAND) huyện Hưng Hà giải quyết cho anh được ly hôn chị Y.
Về nuôi con chung: Anh và chị Y có 01 con chung là Lê Nguyễn Huyền T, sinh ngày 09-5-2018, hiện con chung do chị Y nuôi dưỡng. Nếu ly hôn anh nhường chị Y nuôi con và không góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị Y.
Về chia tài sản chung: Vợ chồng anh tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung: Không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Hải Y vắng mặt nên không có ý kiến trình bầy.
Tại biên bản xác minh ngày 04-10-2019, ông Nguyễn Đình T, sinh năm 1956, địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (là bố đẻ chị Y) trình bày: Chị Nguyễn Hải Y kết hôn cùng anh Lê Văn N do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vào ngày 25-02-2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống, hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do đâu thì ông không nắm bắt được. Mâu thuẫn trầm trọng nhất là vào đầu năm 2019, chị Y đã đưa con về nhà ông để sinh sống sau đó lại đưa con vào T làm ăn đến khi con ốm có về gia đình ông một thời gian rồi lại đưa con đi đâu làm gì thì ông không biết.
Ông cho biết hiện nay chị Y đang làm ăn ở xa, gia đình ông không biết địa chỉ cụ thể của của chị Y ở đâu. Chị Y vẫn thường xuyên liên lạc về cho gia đình qua điện thoại. Ông đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận không khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà gửi cho chị Y, ông đã thông báo nội dung các văn bản trên cho chị Y qua điện thoại, quan điểm của chị Y như sau: Chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh N không còn, chị nhất trí ly hôn. Về nuôi con chung: Chị và anh N có 01 con chung là Lê Nguyễn Huyền T, sinh ngày 09-5- 2018, hiện do chị nuôi dưỡng. Nếu ly hôn chị xin được nuôi con và không yêu cầu anh N góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Về chia tài sản chung, nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện nay chị đang làm ăn xa, bận công việc, không về Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà để giải quyết vụ án ly hôn giữa chị và anh N được, chị đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt chị. Chị Y không cung cấp địa chỉ nơi chị đang sinh sống và làm việc cho ông nên ông không thể cung cấp cho Tòa án được.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình giám sát sự tuân theo pháp luật tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định, anh N đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, chị Y không thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Chị Y vắng mặt tại địa phương, Tòa án đã thực hiện đầy đủ việc tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án đối với chị Y theo đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho anh Lê Văn N được ly hôn chị Nguyễn Hải Y; về nuôi con chung: Giao con chung Lê Nguyễn Huyền T, sinh ngày 09-5-2018 cho chị Y nuôi dưỡng, anh N không phải góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị Y; về chia tài sản chung: Chưa giải quyết; về án phí: Anh N phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh Lê Văn N khởi kiện yêu cầu được ly hôn chị Nguyễn Hải Y, căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
TAND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án cho chị Y, chị Y biết việc TAND huyện Hưng Hà đang thụ lý và giải quyết vụ án ly hôn giữa anh N và chị nhưng chị Y bận công việc, không cung cấp địa chỉ cụ thể cho Tòa án, không đến Tòa án để tham gia tố tụng. Anh N đề nghị Tòa án không hòa giải nên TAND huyện Hưng Hà tiến hành xét xử vắng mặt chị Y theo trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ theo quy tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Anh Lê Văn N kết hôn với chị Nguyễn Hải Y tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vào ngày 25- 02-2016, là hôn nhân hợp pháp. Sau thời gian chung sống hòa thuận, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, trong cuộc thường xuyên xảy ra cãi nhau, anh N và chị Y không khắc phục được đã sống ly thân từ đầu năm 2019. Hội đồng xét xử thấy: Anh N, chị Y mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn chị Y, cần chấp nhận yêu cầu của anh N, xử cho anh N được ly hôn chị Y là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về nuôi con chung: Anh N và chị Y có 01 con chung là Lê Nguyễn Huyền T, sinh ngày 09-5-2018. Xét thấy con chung còn nhỏ, cần có sự chăm sóc của mẹ hơn nữa anh N nhường chị Y trực tiếp nuôi con nên cần giao con chung Lê Nguyễn Huyền T cho chị Y tiếp tục nuôi dưỡng là phù hơp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Do chưa có ý kiến trực tiếp của chị Y về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết tại phiên tòa này (chị Y có thể khởi kiện bằng một vụ án khác).
[4] Về chia tài sản: Mặc dù anh N trình bầy về tài sản chung anh và chị Y tự thỏa thuận phân chia, nợ chung không có; ông T trình bày vợ chồng chị Y, anh N không có tài sản chung, không vay nợ ai, nhưng do chưa có ý kiến trực tiếp của chị Y nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về phần tài sản chung của anh N và chị Y tại phiên tòa hôm nay. Anh N và chị Y có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản (nếu có) bằng vụ kiện dân sự khác.
[5] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà về hướng giải quyết vụ án phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[6] Về án phí: Anh N phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Lê Văn N và chị Nguyễn Hải Y.
2.Về nuôi con chung: Giao cho chị Nguyễn Hải Y trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Nguyễn Huyền T, sinh ngày 09-5-2018. Anh N không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Y. Anh N có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về chia tài sản: Chưa giải quyết.
4. Về án phí: Anh Lê Văn N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng anh N đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0005756 ngày 22-9-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (anh N đã nộp đủ tiền án phí).
5. Về quyền kháng cáo: Anh Lê Văn N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Nguyễn Hải Y có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ.
Bản án 74/2019/HNGĐ-ST ngày 20/11/2019 về ly hôn giữa anh N và chị Y
Số hiệu: | 74/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về