TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 74/2019/DS-PT NGÀY 14/03/2019 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 14 tháng 03 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 400/2018/TLST-DS ngày 01 tháng 11 năm 2018 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2018/DS-ST ngày 19/09/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 150/2018/QĐPT-DS ngày 20 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Vương Nguyên T, sinh năm 1949 (có mặt).
2. Bà Nghiêm Mỷ N, sinh năm 1960 (có mặt).
Cùng địa chỉ: ấp N, xã V1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Trần Văn Linh, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Bị đơn: Ông Khưu T1, sinh năm 1983 (vắng mặt).
Địa chỉ: ấp N, xã V1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Khưu Thị Kim Th, sinh năm 1997.
Địa chỉ: ấp N, xã V1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
Đại diện ủy quyền của Ủy ban nhân dân thị xã V: Ông Sơn Ngọc Th - Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã V (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Uỷ ban nhân dân thị xã V: Ông Trần Văn T – Phó Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã V (vắng mặt).
2. Ông Khưu T2, sinh năm 1985 (vắng mặt).
3. Bà Khưu Mỷ Nh, sinh năm 1987 (vắng mặt).
4. Ông Khưu Ngh, sinh năm 1989 (vắng mặt).
5. Bà Khưu Mỷ S, sinh năm 1991 (có mặt).
6. Bà Khưu Thị Kim Th, sinh năm 1997 (có mặt).
Cùng địa chỉ: ấp N, xã V1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
- Người làm chứng: Bà Kim Thị Th1.
Địa chỉ: ấp N, xã V1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện của nguyên đơn cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Vương Nguyên T và bà Nghiêm Mỷ Nừng cùng trình bày:
Ông, bà có diện tích đất 2.191m2, thuộc thửa 591, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại ấp N, xã V1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng do ông Vương Nguyên T đứng tên quyền sử dụng đất. Phần đất này có nguồn gốc là của cha ông T là cụ Dương (Vương) C chuyển nhượng của bà Dương Thị L ngày 12/2/1970, sau khi cha ông mất thì cho lại ông sử dụng cho đến nay.
Giáp với thửa 591 của ông về phía tây là thửa 778 của ông Khưu Y (hiện nay con ông Y là ông Khưu T1 đang quản lý, sử dụng). Để làm ranh giữa hai thửa đất thì cha của ông có đắp một cái bờ rộng khoảng 2m, chạy dài hết đất và có trồng hai hàng cây cóc để làm ranh, hiện nay cây đã lớn và vẫn còn nguyên.
Năm 2013 gia đình ông dọn bờ để trồng dừa thì ông Khưu T1 ngăn cản và bao chiếm qua ranh đất của ông, bà với diện tích 41,1m2 (chiều ngang 1,17m, dài 35m) vì ông phát hiện diện tích đất này của ông nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cha ông T1, nên vào năm 2015 đoàn cán bộ của tỉnh và thị xã đến đo đạc để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông T1 không đồng ý cho ông đăng ký theo ranh đất cũ. Ông, bà thống nhất kết quả thẩm định của Tòa án ngày 19/10/2017.
Theo đơn khởi kiện ông, bà yêu cầu:
1/ Buộc ông Khưu T1 trả lại cho ông, bà phần đất đã bao chiếm là 41,1m2 (chiều ngang 1,17m, dài 35m) thuộc thửa 778, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại ấp ấp N, xã V1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng do ông Khưu Y đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2/ Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân thị xã V cấp cho ông Khưu Y đối với phần diện tích 41,1m2 nêu trên.
Tại phiên tòa, ông T và bà N yêu cầu bị đơn trả lại phần đất có diện tích đo đạc thực tế là 57,80m2.
Theo lời trình bày tại biên bản lấy lời khai, ngày 30/12/2016 và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Khưu T1 trình bày: Không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vương Nguyên T – bà Nghiêm Mỷ N vì phần đất tại thửa 778, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại ấp N, xã V1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng là của ông bà để lại, cha ông là Khưu Y đứng tên quyền sử dụng đất, hiện phần đất do ông quản lý. Giữa thửa 778 của gia đình ông với đất ông T – bà N có ranh là cái bờ ngang dài 1,5m và có cây cóc trồng làm ranh.
Tại Tờ tường trình ngày 09/8/2018 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông (bà) Khưu T2, Khưu Thị Kim Th, Khưu Ngh, Khưu Mỹ S, Khưu Mỹ Nh cùng trình bày: Không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông T- bà N về việc yêu cầu Khưu T1 trả lại phần đất có diện tích 41,1m2 (đo đạc thực tế 57,80m2) tại thửa 778, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại ấp N, xã V1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng và yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 778, vì phần đất này là của ông bà để lại cho cha ông, bà là ông Khưu Y. Ranh đất giữa hai bên là 01 bờ chung, trên đó có trồng nhiều loại cây.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân thị xã V tại tòa trình bày: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 778 cho ông Khưu Y là đúng trình tự, thủ tục tại thời điểm cấp giấy. Ranh đất của nguyên đơn với phần đất của ông Trần M không có ranh cố định nên về chuyên môn thì không đủ căn cứ để xác định bị đơn lấn đất nguyên đơn nên việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Khưu Y là không cơ sở. Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cho rằng: Án sơ thẩm chưa làm rõ nhiều vấn đề, ở trường hợp này ranh là rất khó xác định, quá trình đo đạc, cấp đất của UBND cũng chưa làm rõ. Biên bản thẩm định tại chỗ cũng chưa xác định cụ thể, đồng thời chưa làm rõ việc UBND cấp có đúng trình tự, thủ tục hay không. Án sơ thẩm là không có căn cứ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quan điểm như sau:
Đất tranh chấp các bên đều xác định cùng sử dụng. Nguyên đơn cho rằng diện tích đất này là của mình nhưng không đưa ra được chứng cứ để chứng minh. Đất của nguyên đơn giáp với đất của ông M nhưng không xác định được ranh giới cụ thể. Vì vậy, án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn trả lại phần đất có diện tích đo đạc thực tế 57,80m2, thuộc thửa 778, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại ấp N, xã V1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng thì thấy: Nguyên đơn cho rằng phần đất tranh chấp là một phần đất của cha ông, bà là ông Dương C mua lại của bà Dương Thị L vào năm 1970 để lại và phần đất tranh chấp này là bờ ngang 1,5m do cha nguyên đơn đắp để làm ranh. Phía bị đơn cho rằng phần đất tranh chấp là bờ chung, có trồng nhiều cây tạp dùng làm ranh đất giữa hai bên. Nguyên đơn và bị đơn không thống nhất về nguồn gốc đất tranh chấp nhưng nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận phần đất tranh chấp là bờ dùng làm ranh giữa hai bên nên thuộc tình tiết không cần phải chứng minh quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Các chứng cứ đã thu thập thể hiện, phần đất tranh chấp cả nguyên đơn và bị đơn đều sử dụng, tuy nhiên nguyên đơn cho rằng phần đất tranh chấp là của nguyên đơn nhưng trong quá trình sử dụng bị đơn đã bao chiếm và phần đất này nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cha bị đơn là ông Khưu Y nên yêu cầu bị đơn phải trả lại. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết tranh chấp, mặc dù phía nguyên đơn ông T – bà N có cung cấp tờ nhượng đất ngày 12/2/1970 (bút lục 28) thể hiện chiều ngang 63m, nhưng theo như sơ đồ vị trí phần đất tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 738, 592, 591 tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại ấp N, xã V1 do nguyên đơn ông Vương Nguyên T đứng tên; thửa đất 778 do ông Khưu Y (cha bị đơn) đứng tên quyền sử dụng đất và biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, biên bản định vị phần đất tranh chấp (bút lục 75-79, 150-154) thì phần đất của nguyên đơn giáp với phần đất 778 của gia đình bị đơn, các thửa đất của nguyên đơn ở hướng đông giáp với đất ông Trần M không có cột ranh cố định để xác định ranh đất giữa nguyên đơn với đất của gia đình ông Trần M, tức là hiện tại không xác định được chiều ngang thửa đất của nguyên đơn ông T do cạnh giáp đất của ông M không cố định và tại biên bản xác minh ngày 02/5/2018 (bút lục 207-209) ông Trần M cũng xác định phần đất giáp với nguyên đơn ông T – bà N không có cột ranh mà do hai bên tự thỏa thuận chỉ ranh. Qua xem xét thẩm định tại chỗ phần đất tranh chấp cũng không có hàng cây cóc mà chỉ có cây tạp tự mọc. Như vậy, nguyên đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh phần đất tranh chấp là của nguyên đơn nên không đủ cơ sở để xác định bị đơn ông T1 chiếm đất của nguyên đơn vợ chồng ông T – bà N, không xác định được phần đất tranh chấp mà nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại là của nguyên đơn. Đồng thời, Ủy ban nhân dân thị xã V xác định việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 778 cho ông Khưu Y (cha bị đơn) là đúng trình tự, thủ tục tại thời điểm cấp giấy nên yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 778 của nguyên đơn là không có căn cứ. Chính vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[4] Do kháng cáo không được chấp nhận, vì vậy phía nguyên đơn phải chịu án phí phúc thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của phía nguyên đơn ông Vương Nguyên T và bà Nghiêm Mỷ N; giữ nguyên quyết định của bản án số 49/2018/DS-ST ngày 19/9/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vương Nguyên T và bà Nghiêm Mỷ N về việc buộc bị đơn ông Khưu T1 trả lại phần đất có diện tích đo đạc thực tế là 57,80m2 thuộc thửa 778, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại ấp N, xã V1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng do ông Khưu Y đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không chấp nhận yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân thị xã V cấp cho ông Khưu Y đối với phần diện tích tranh chấp nêu trên, cụ thể phần đất có số đo tứ cận:
Hướng Đông giáp phần đất của ông Vương Nguyên T, số đo 51,68m; Hướng Tây giáp đất ông Khưu T1, số đo 51,66m;
Hướng Nam giáp đất ông Trương Đình Q, số đo 0,65m; Hướng Bắc giáp Huyện lộ 10, số đo 1,58m.
2. Nguyên đơn ông Vương Nguyên T và bà Nghiêm Mỷ N mỗi người phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng, khấu trừ đi số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng ông T đã nộp theo biên lai số 0005674 và 300.000 đồng bà N đã nộp theo biên lai số 0005673 ngày 04/10/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 74/2019/DS-PT ngày 14/03/2019 về tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 74/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/03/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về