Bản án 74/2018/HS-ST ngày 23/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 74/2018/HS-ST NGÀY 23/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2018 tại Trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 71/2018/TLST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2018 đối với các bị cáo:

Hoàng Văn C, sinh ngày 27 tháng 6 năm 1991 tại huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn X, xã C, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn K (đã chết), con bà Lương Thị S, sinh năm 1968; vợ, con: Chưa có; tiền án: Có 01 tiền án về Tội trộm cắp tài sản, Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 09 tháng tù giam tại bản án số 46/2016/HSST ngày 16/11/2016; tiền sự: không; bị tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến nay. Có mặt .

Nguyễn Công K1, sinh ngày 12 tháng 02 năm 1993 tại huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đâu Linh, xã Chi Lăng, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Công V, sinh năm 1958, con bà Vi Thị N (đã chết); vợ Hoàng Thị T, sinh năm 1987; con: Có 01 con sinh năm 2013; tiền án: Có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, bị Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 09 tháng tù giam tại bản án số 46/2016/HSST ngày 16/11/2016; tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ ngày 11/01/2018, tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ tại đường N, khối 8, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, phát hiện Nguyễn Công K1 chở Hoàng Văn C bằng xe môtô nhãn hiệu ANGEL màu đen bạc, biển kiểm soát 98L3-3478 đi lên phía khu vực T, có biểu hiện nghi vấn về ma túy. Tổ công tác đến kiểm tra thấy Hoàng Văn C thả từ trong lòng bàn tay phải 01 gói giấy nhỏ bên trong chứa chất bột màu trắng xuống đất, lực lượng chức năng đã yêu cầu Hoàng Văn C nhặt lên và đưa các đối tượng cùng tang vật về trụ sở để kiểm tra.

Tại bản kết luận giám định số 73/KLTT-PC54, ngày 13/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong 01 (một) gói giấy, niêm phong trong phong bì thư gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,158 gam (đã trừ bì).

Tại bản cáo trạng số 71/KSĐT, ngày 19/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố các bị cáo: Hoàng văn C, Nguyễn Công K1 về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Hoàng Văn C, Nguyễn Công K khai nhận: Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 11/01/2018, Hoàng Văn C và Nguyễn Công K1 góp mỗi người 50.000đ để mua ma túy về sử dụng chung. Nguyễn Công Kiên điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98L3-3478 chở Hoàng Văn Cường ra khu vực cổng sau chợ Đ thuộc đường N, phường V, thành phố L gặp một người đàn ông tên P (không biết họ và địa chỉ) hỏi mua ma túy và hẹn đến khu vực phía sau Bưu điện tỉnh Lạng Sơn giao nhận. Tại đây P đưa cho Hoàng Văn C 01 gói ma túy, Hoàng Văn C nhận ma túy và trả cho P 100.000 đồng, còn Nguyễn Công K1 ngồi trên xe đợi. Sau khi mua được ma túy Nguyễn Công K chở Hoàng Văn C vào một hiệu thuốc mua nước cất và kim tiêm rồi tiếp tục điều kiển xe chở Hoàng Văn C đi lên khu vực T để sử dụng ma túy thì bị phát hiện bắt quả tang.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn C và Nguyễn Công K phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015: xử phạt bị cáo: Hoàng Văn C từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù; xử phạt bị cáo Nguyễn Công K1 từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định, 03 xi lanh kim tiêm, 01 lọ nước cất Novocain. Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu ANGEL màu đen bạc, biển kiểm soát 98L3-3478, quá trình điều tra Nguyễn Công K1 khai mượn của anh Vy Văn B, tuy nhiên anh Vy Văn B không xuất trình được giấy tờ chứng minh nguồn gốc tài sản nên Cơ quan điều tra đã chuyển chiếc xe trên đến Đội Cảnh sát giao thông công an thành phố Lạng Sơn để xác minh, xử lý theo quy định.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng các bị cáo đều nhận thức rõ về hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Trên cơ sở lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai người chứng kiến và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ để khẳng định: Ngày 11/01/2018, các bị cáo Hoàng Văn C và Nguyễn Công K đã có hành vi tàng trữ 0,158 gam ma túy Heroine. Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đối với các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của các bị cáo được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất về ma túy của Nhà nước.

[4] Các bị cáo tham gia vụ án với vai trò đồng phạm giản đơn, đã cùng nhau đồng thuận góp tiền đi mua ma túy về sử dụng chung, tự tiếp nhận ý chí và cùng nhau thực hiện nên có vai trò ngang nhau.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Ngoài ra, cả hai bị cáo Hoàng Văn C và Nguyễn Công K1 đều đã có 01 tiền án vào năm 2016 chưa được xóa án tích, lần phạm tội này của các bị cáo là tái phạm nên các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu, đã được pháp luật giáo dục cải tạo nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm, thể hiện các bị cáo là người thiếu tu dưỡng, rèn luyện và coi thường pháp luật.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Xét lời luận tội và mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Đối với người có tên P bán ma túy cho Hoàng Văn C và Nguyễn Công K1 do không biết lai lịch, địa chỉ, Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để điều tra xử lý.

[10] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì đựng chất ma túy sau giám định là vật cấm lưu hành, 03 (Ba) xilanh bơm kim tiêm và 01 (một) lọ nước cất Novocain không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu ANGEL màu đen bạc, biển kiểm soát 98L3-3478, quá trình điều tra Nguyễn Công K1 khai mượn của anh Vy Văn B, tuy nhiên anh Vy Văn B không xuất trình được giấy tờ chứng minh nguồn gốc tài sản nên Cơ quan điều tra đã chuyển chiếc xe trên đến Đội Cảnh sát giao thông công an thành phố Lạng Sơn để xác minh, xử lý theo quy định, Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1; điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn C và Nguyễn Công K1 phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 11/01/2018.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công K1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 11/01/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Hoàng Văn C và Nguyễn Công K1.

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định; 03 (Ba) xilanh bơm kim tiêm; 01 (một) lọ nước cất Novocain.

 (Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/4/2018).

4. Án phí: Buộc các bị cáo Hoàng Văn C và Nguyễn Công K1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 74/2018/HS-ST ngày 23/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;