TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 74/2018/DS-ST NGÀY 10/04/2018 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 4 năm 2018 tại phòng xét xử của Toà án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 46/2017/TLST - DS ngày 16 tháng 11 năm 2017 về việc: “Tranh chấp kiện đòi tài sản”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 457/2018/QĐXXST- DS ngày 06 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1980; Nơi cư trú: 66/7 ấp AN, xã AT, huyện P, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn: Bà Đặng Thị Tuyết L, sinh năm 1953; Nơi cư trú: 44/5 ấp AN, xã AT, huyện P, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Văn K, sinh năm 1958: 44/5 ấp AN, xã AT, huyện P, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Nguyên đơn Nguyễn Thị H theo nội dung đơn khởi kiện, quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:
Vào ngày 15/5/2011 (âm lịch) bà Đặng Thị Tuyết L có đến nhà bà hỏi vay số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) để về làm ăn phát triển kinh tế gia đình và bà L đưa ra lãi suất là 4% trên tháng, khi bà L hỏi vay nợ bà L có viết biên nhận nợ cho bà và hứa khi nào bà cần đòi lại thì bà L sẽ trả lại số tiền vay. Đến tháng 11 năm 2011 bà đến nhà bà L đòi lại số tiền vốn 50.000.000 đồng thì bà L và ông K không trả, bà có gửi đơn kiện lên Đội Cảnh sát điều tra kinh tế Công an huyện Thạnh Phú đã thụ lý hồ sơ và đến ngày 30/6/2014 thì Công an huyện Thạnh Phú trả lại cho bà hồ sơ kiện và yêu cầu bà làm đơn để khởi kiện bà L và ông K tại Tòa án. Cho nên bà yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú giải quyết buộc bà Đặng Thị Tuyết L và ông Võ Văn K có nghĩa vụ liên đới trả cho bà số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) bà không yêu cầu tính lãi.
Chứng cứ bà H cung cấp cho Tòa án để chứng minh cho yêu cầu của bà là biên nhận nợ do bà L viết bằng giấy tập học sinh, biên bản ghi lời khai ngày 13/02/2012 tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú (bản sao đã được đối chiếu), kết luận giám định số: 180/KLGĐ, ngày 16/9/2013 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre (bản sao đã được đối chiếu), đơn xác nhận quan hệ gia đình.
*Trong quá trình tố tụng tại biên bản lấy lời khai ngày 07/3/2018, biên bản làm việc ngày 07/3/2018 bị đơn bà Đặng Thị Tuyết L trình bày:
Bà cho rằng bà không có nợ tiền ai, cũng không biết bà Nguyễn Thị H là ai cho nên bà không đồng ý tham dự hòa giải theo qui định mặc dù đã được Tòa án thông báo. Do bà cho rằng bà không có nợ tiền nên bà không đồng ý ký tên tại biên bản lấy lời khai và biên bản làm việc của Tòa án.
*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn K vắng mặt và cũng không có văn bản ghi ý kiến gửi đến Tòa án nên không có ý kiến trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo qui định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự; Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ theo đúng thủ tục tố tụng. Người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo qui định pháp luật, bị đơn không tham gia các phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo qui định tại Điều 70, 71, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 256 của Bộ luật Dân sự 2005; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 91, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H. Buộc bà L, ông K có nghĩa vụ liên đới trả cho bà H số tiền 50.000.000 (Năm mươi trăm triệu) đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn Nguyễn Thị H tranh chấp kiện đòi tài sản với bị đơn Đặng Thị Tuyết L theo quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; theo điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú.
[3] Về tố tụng: Bà Đặng Thị Tuyết L và Ông Võ Văn K đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 đến tham gia phiên tòa nhưng bà L và ông K vẫn không đến, việc vắng mặt không rõ lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử vắng mặt bà L và ông K theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4] Bà H yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Đặng Thị Tuyết L, ông Võ Văn K (chồng bà L) phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà H số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng là có căn cứ bởi lẽ chứng cứ bà H cung cấp cho Tòa án để chứng minh cho yêu cầu của bà H là:
- Tờ biên nhận do bà L viết bằng giấy tập học sinh bắt đầu bằng các chữ “Ngày 15 – T – 5 L mượn năm chục triệu (50.000.000)” (đã được đối chiếu bản chính).
- Biên bản ghi lời khai ngày 13/02/2012 tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú (đã được đối chiếu bản chính).
- Kết luận giám định số: 180/KLGĐ, ngày 16/9/2013 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre (đã được đối chiếu bản chính).
- Đơn xác nhận quan hệ gia đình.
Tuy bà L không thừa nhận có nợ bà H nhưng tại “Biên bản ghi lời khai ngày 13/02/2012” (Bút lục số 40, 41) do ông Nguyễn Văn N – Nguyên là đội trưởng đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ Công an huyện Thạnh Phú trực tiếp lấy lời khai bà Đặng Thị Tuyết L thì bà L đã thừa nhận nợ cháu H con ông 9 Lên (Nguyễn Văn Lên) số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng và tại đơn xác nhận quan hệ gia đình ngày 13/3/2018 của Ủy ban nhân dân xã An Thuận xác nhận bà Nguyễn Thị H là con ruột ông 9 L (Nguyễn Văn L). Nội dung này phù hợp với chứng cứ biên nhận nợ bà H số tiền 50.000.000 đồng. Đối với ông K sống chung với bà L trước ngày 03/01/1987 là hôn nhân thực tế được pháp luật thừa nhận là vợ chồng, hiện nay đang sinh sống tại địa phương, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản theo quy định pháp luật. Điều này chứng tỏ ông K biết được việc bà H đang khởi kiện nhưng cố tình vắng mặt, thời điểm bà H cho bà L vay tiền thì ông K biết, nên bà H cho rằng việc bà L vay tiền để sử dụng vào mục đích chung của gia đình là có cơ sở. Bà L không thừa nhận nợ đối với bà H để chứng minh cho lời trình bày của bà, nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc về bà L, do bà L không chứng minh được lời trình bày của mình là có căn cứ nên không có cơ sở chấp nhận. Do đó, bà H yêu cầu bà L, ông K có nghĩa vụ liên đới trả nợ gốc là 50.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 256 Bộ luật Dân sự 2005, Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H. Buộc bà L, ông K phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà H số tiền là 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng.
[5] Do yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H được chấp nhận nên bà Đặng Thị Tuyết L và ông Võ Văn K có nghĩa vụ liên đới nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là: 2.500.000 (Hai triệu năm trăm nghìn) đồng.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo qui định của pháp luật tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 147, 227, 228, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 256 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về án phí, lệ phí của Toà án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H. Buộc bà Đặng Thị Tuyết L và ông Võ Văn K phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà H số tiền 50.000.000 (Năm chục triệu) đồng.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Đặng Thị Tuyết L, ông Võ Văn K phải có nghĩa vụ liên đới nộp: 2.500.000 (Hai triệu năm trăm nghìn) đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
Bà Nguyễn Thị H được Chi cục thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.250.000 (một triệu hai trăm năm chục nghìn) đồng theo biên lai thu số 0012224, ngày 16 tháng 11 năm 2017.
Đương sự có mặt tại Tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử phúc thẩm. Riêng đương sự vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 74/2018/DS-ST ngày 10/04/2018 về kiện đòi tài sản
Số hiệu: | 74/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 10/04/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về