TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 734/2023/HS-PT NGÀY 21/09/2023 VỀ TỘI SẢN XUẤT HÀNG GIẢ
Ngày 21 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ L số 319/2022/TLPT-HS ngày 19 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Lâm Thị N, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2022/HS-ST ngày 21/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh V.
* Bị cáo có kháng cáo:
Lâm Thị N, sinh ngày 06/11/1991 tại V; giới tính: Nữ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn T80, xã N, thành phố P, tỉnh V; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Sán dìu; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Văn B và bà Lương Thị T; chồng là Dương Đức A và có 04 con (con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh ngày 03/7/2023); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án có bị cáo Võ Văn L bị kết án 02 năm 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm về tội “Sản xuất hàng giả”; 25 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh V và Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh V, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 10/9/2020, tại tổ dân phố Đ, phường Đ, thành phố P, tỉnh V, Công an thành phố P kiểm tra xe ô tô tải nhãn hiệu KIA, BKS 88H-000.xx do Võ Văn L điều khiển đang vận chuyển 03 thùng carton bên trong mỗi thùng có chứa 360 hộp mỹ phẩm mang tên ESSENCE PEPTIDE, trên bao bì mỗi hộp đều có ghi: Công ty sản xuất THE SUN COSMETICS CO.,LTD.MST: 03149064xx, địa chỉ: 65a An Phú Đông 25, phường A, Quận X, thành phố H. L không xuất trình được hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa. L khai nhận 03 thùng mỹ phẩm này là của Lâm Thị N (là em gái cùng mẹ khác cha) với L, N sản xuất giả tại nhà ở của mình. Buổi trưa cùng ngày, N giao cho L vận chuyển 03 thùng mỹ phẩm ESSENCE PEPTIDE ra đường quốc lộ 2A gửi xe ô tô khách đem đến bến xe M thành phố H để bán cho khách hàng. Ngoài 03 thùng mỹ phẩm nêu trên, N còn cất giấu nhiều thùng mỹ phẩm khác trong lán để xe nhà của L và xưởng sản xuất của N. Tổ công tác tiến hành lập biên bản sự việc, thu giữ vật chứng, xe ô tô tải BKS 88H-000.xx và đưa L về trụ sở làm việc.
Cùng ngày, Cơ quan điều tra đã kiểm tra và thu giữ tại nhà ở của L gồm:
103 thùng carton chứa 10.300 hộp mỹ phẩm Lady care nhãn hiệu LINH HƯƠNG; 13 thùng carton chứa 2.548 hộp mỹ phẩm MASK MILK CREAM nhãn hiệu LSKIN WHITE; 21 thùng carton chứa 2.208 hộp mỹ phẩm RIC SKIN Night cream nhãn hiệu RIC SKIN; 01 thùng carton chứa 164 hộp mỹ phẩm DETOX MASK nhãn hiệu DETOX BLANC; 06 thùng carton chứa 2.184 hộp mỹ phẩm ESSENCE PEPTIDE nhãn hiệu DETOX BLANC; 06 thùng carton chứa 5.400 thỏi son môi nhãn hiệu CREAMY MATTE LIPSTICK và 25 thùng carton bên trong chứa 5.000 lọ làm bằng nhựa, trên lọ có ghi chữ “DETOX MASK”. Đã tiến hành tạm giữ số mỹ phẩm và nguyên liệu sản xuất mỹ phẩm giả do L giao nộp và niêm phong.
Cùng ngày, tiến hành khám nơi cất giấu tang vật là kho, xưởng sản xuất mỹ phẩm của N, đã thu giữ gồm: 01 máy pha trộn bằng kim loại, đã qua sử dụng; 01 chiếc cân điện tử màu đen; 04 túi nilon bên trong có chứa dung dịch dạng lỏng, màu trắng đục; 02 túi nilon bên trong có chứa dung dịch dạng lỏng, màu nâu vàng; 02 túi nilon bên trong có chứa chất bột màu trắng; 02 thùng phi màu trắng vẫn còn nguyên nắp thùng; 01 thùng phi màu trắng đã mở nắp, bên trong không chứa chất gì; 01 can nhựa màu trắng loại 10 lít, bên trong có chứa dung dịch trong suốt, bên ngoài dán giấy ghi chữ “TEA-SL 10kg”; 01 can nhựa màu trắng bên trong có chứa dung dịch trong suốt, bên ngoài vỏ can có dán giấy ghi chữ “TÊN HÀNG METHYL LACTATE - SL: 6KG”; 02 can nhựa màu trắng loại 30 lít và 01 vỏ can nhựa màu trắng loại 20 lít, bên trong đều không chứa chất gì; 01 thùng nhựa màu xanh có nắp màu đen, bên trong có chứa chất lỏng.
Ngày 28/9/2020, Cơ quan điều tra làm việc với Công ty T, thu 01 sản phẩm “Ladycare” tên thường gọi là dung dịch vệ sinh phụ nữ được đóng gói hoàn thiện của Công ty T sản xuất và ngày 07/10/2020, Công ty T cung cấp cho Cơ quan điều tra 01 Phiếu kiểm nghiệm số 781/KNM-20 ngày 22/6/2020 đối với sản phẩm mỹ phẩm Ladycare của Trung tâm kiểm nghiệm thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm H (bản phô tô có dấu treo xác nhận của Công ty T).
Ngày 26/10/2020, Cơ quan điều tra tiến hành làm việc với Công ty K, thu 01 hộp sản phẩm mỹ phẩm Night Cream nhãn hiệu RIC SKIN.
Ngày 18/11/2020, Cơ quan điều tra tiến hành làm việc với Công ty V, thu 01 hộp sản phẩm mỹ phẩm ESSENCEN PEPTIDE và 01 hộp sản phẩm mỹ phẩm DETOX MASK đều chưa qua sử dụng được dán tem xác thực của Công ty trên mép vỏ hộp.
Ngày 08/10/2020, Cơ quan điều tra có văn bản đề nghị Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ cung cấp thông tin về việc cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu mỹ phẩm cho các nhãn hiệu gồm: LINH HƯƠNG của Công ty T, LSKIN WHITE của Công ty Đ, RIC SKIN của Công ty K; DETOX BLANC do Công ty TNHH T sản xuất và Công ty V phân phối; Lâm Thị N, sinh năm 1991, trú tại: Thôn T80, xã N, thành phố P, tỉnh V.
Ngày 06/11/2020, Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ có Văn bản số 1330/SHTT-TTKN trả lời:
“- Nhãn hiệu “LINH HƯƠNG” được bảo hộ theo giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 2804499 cho các sản phẩm “Mỹ phẩm, kem làm trắng da, nước hoa, dầu gội đầu, chế phẩm mỹ phẩm để tắm, keo xịt tóc” thuộc nhóm 03 cho bà Nguyễn Thị Bích M. Đại diện sở hữu công nghiệp: Công ty TNHH T, tên viết tắt: AGELESS CO., LTD. Trụ sở: Tầng 11, số 102 đường T, phường M, quận H, thành phố H.
- Nhãn hiệu “DETOX BLANC” được bảo hộ theo giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 314048 cho các sản phẩm “mỹ phẩm” thuộc nhóm 03 cho Công ty TNHH thương mại sản xuất xuất nhập khẩu V, địa chỉ: Số 88 N, phường 3, quận G, thành phố H.
- Nhãn hiệu “LSKIN WHITE”, “RIC SKIN” chưa nộp đơn đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm “mỹ phẩm” thuộc nhóm 03 tại Việt Nam.
- Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ chưa tiếp nhận đơn đăng ký nhãn hiệu, cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu mỹ phẩm cho bà Lâm Thị N, địa chỉ: thôn T80, xã N, thành phố P, tỉnh V”.
Ngày 20/4/2021, Cơ quan điều tra có văn bản gửi Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị cung cấp thông tin về việc đăng ký nhãn hiệu của Công ty T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Bích M.
Ngày 13/5/2021, Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ có Văn bản số 4090 trả lời:
“- Bà Nguyễn Thị H, địa chỉ: Tầng 3, số 130 Nguyễn Đức Cảnh, phường T, quận H, thành phố H (Giám đốc - người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH đầu tư và thương mại T) là chủ sở hữu nhãn hiệu “beauty of Nature, hình” bảo hộ theo Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 288964, (ngày nộp đơn 21/7/2015, ngày cấp 04/10/2017, thời hạn hiệu lực 21/7/2025) cho sản phẩm “mỹ phẩm, tinh dầu” thuộc nhóm 03.
- Bà Nguyễn Thị Bích M, địa chỉ: Thôn Ngọc Sơn Đông, xã H, huyện P, tỉnh P là chủ sở hữu nhãn hiệu “LINH HUONG” bảo hộ theo Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 280499, (ngày nộp đơn 06/7/2015, ngày cấp 24/4/2017, thời hạn hiệu lực 06/7/2025) cho sản phẩm “mỹ phẩm, kem làm trắng da, nước hoa, dầu gội đầu, chế phẩm mỹ phẩm để tắm, keo sịt tóc” thuộc nhóm 03.
- Đến thời điểm hiện tại, Cục Sở hữu trí tuệ chưa tiếp nhận đơn đăng ký nhãn hiệu liên quan đến Công ty TNHH đầu tư và thương mại T”.
Ngày 08/10/2020, Cơ quan điều tra ra Quyết định trưng cầu Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an giám định mỹ phẩm đối với 01 hộp mỹ phẩm mang tên Ladycare ghi nhãn hiệu LINH HƯƠNG do Công an thành phố P tạm giữ với mẫu so sánh do Công ty T cung cấp.
Tại Kết luận giám định số: 7029/C09-P4 ngày 23/11/2020 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:
“- Vỏ hộp, vỏ chai nhựa của sản phẩm “Lady care, LINH HƯƠNG” gửi giám định không cùng loại với vỏ hộp và vỏ chai nhựa của sản phẩm “Lady care, LINH HƯƠNG” do Công ty TNHH đầu tư và thương mại T cung cấp.
- Mẫu dung dịch của sản phẩm “Lady care, LINH HƯƠNG” gửi giám định không cùng loại với mẫu dung dịch của sản phẩm “Lady care, LINH HƯƠNG” gửi làm mẫu so sánh, không phát hiện các thành phần hóa học như: sabinen; camphene; D-limonen...
- Trong mẫu dung dịch của sản phẩm “Lady care, LINH HƯƠNG” gửi giám định không tìm thấy các chất cấm không được sử dụng trong mỹ phẩm”.
Ngày 27/11/2020, Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an giám định các sản phẩm mỹ phẩm mang tên RIC SKIN Nightcream, DETOX MASK và ESSENCE PEPTIDE.
Tại Kết luận giám định số 8608/C09-P4 ngày 25/12/2020 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:
“- 01 (một) hộp sản phẩm mỹ phẩm mang tên RIC SKIN Nightcream gửi giám định không cùng loại về vỏ hộp, vỏ chai và chất lượng của mẫu dạng kem bên trong với 01 (một) hộp sản phẩm mỹ phẩm mang tên RIC SKIN Nightcream do Công ty Cổ phần tập đoàn K cung cấp làm mẫu so sánh.
- 01 (một) hộp sản phẩm mỹ phẩm mang tên DETOX MASK gửi giám định không cùng loại về vỏ hộp, vỏ chai và chất lượng của mẫu dạng kem bên trong với 01 (một) hộp sản phẩm mỹ phẩm mang tên DETOX MASK do Công ty TNHH thương mại sản xuất xuất nhập khẩu V cung cấp làm mẫu so sánh.
- 01 (một) hộp sản phẩm mỹ phẩm mang tên ESSENCE PEPTIDE gửi giám định không cùng loại về vỏ hộp, vỏ chai và chất lượng của mẫu dạng kem bên trong với 01 (một) hộp sản phẩm mỹ phẩm mang tên ESSENCE PEPTIDE do Công ty TNHH thương mại sản xuất xuất nhập khẩu V cung cấp làm mẫu so sánh.
- Mẫu chất dạng kem bên trong của 01 (một) hộp sản phẩm mỹ phẩm mang tên “RIC SKIN Nightcream”; Mẫu dạng kem bên trong của 01 (một) hộp sản phẩm mỹ phẩm mang tên “DETOX MASK” và chất dạng lỏng bên trong của 01 (một) hộp sản phẩm mỹ phẩm mang tên ESSENCE PEPTIDE gửi giám định đều không đạt chỉ tiêu chất lượng như Công ty Cổ phần tập đoàn Kohinoor Star và Công ty TNHH thương mại sản xuất xuất nhập khẩu V công bố.
- Trong các mẫu dạng kem của 01 (một) hộp sản phẩm mỹ phẩm mang tên RIC SKIN Nightcream và 01 (một) hộp sản phẩm mỹ phẩm mang tên DETOX MASK; trong mẫu dạng lỏng của 01 (một) hộp sản phẩm mỹ phẩm mang tên ESSENCE PEPTIDE gửi giám định đều không tìm thấy các chất cấm không được sử dụng trong mỹ phẩm”.
Ngày 23/10/2020, Cơ quan điều tra có yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh V định giá 10.300 hộp mỹ phẩm mang tên Lady care LINH HUONG của Công ty T.
Tại Kết luận định giá tài sản số: 2227/KL-HĐ ĐGTS ngày 03/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh V kết luận: “Số lượng 10.300 hộp mỹ phẩm chưa qua sử dụng mang tên Lady care ghi nhãn hiệu Linh Hương có giá trị 566.500.000 đồng”.
Ngày 27/11/2020, Cơ quan điều tra có yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh V định giá đối với 2.208 hộp mỹ phẩm chưa qua sử dụng mang tên RIC SKIN Nightcream ghi nhãn hiệu RIC SKIN của Công ty Cổ phần tập đoàn K; 164 hộp mỹ phẩm chưa qua sử dụng mang tên DETOX MASK ghi nhãn hiệu DETOX BLANC của Công ty TNHH thương mại sản xuất xuất nhập khẩu V; 3.264 hộp mỹ phẩm chưa qua sử dụng mang tên ESSENCE PEPTIDE ghi nhãn hiệu DETOX BLANC của Công ty V.
Tại Kết luận định giá tài sản số 2496/KL-HĐĐGTS ngày 10/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận:
“- 2.208 sản phẩm mỹ phẩm chưa qua sử dụng mang tên RIC SKIN Nightcream ghi nhãn hiệu RIC SKIN của Công ty cổ phần tập đoàn K có giá trị là 357.696.000 đồng;
- 164 sản phẩm mỹ phẩm chưa qua sử dụng mang tên DETOX MASK ghi nhãn hiệu DETOX BLANC của Công ty TNHH thương mại sản xuất xuất nhập khẩu V có giá trị là 11.808.000 đồng;
- 3.264 sản phẩm mỹ phẩm chưa qua sử dụng mang tên ESSENCE PEPTIDE ghi nhãn hiệu DETOX BLANC của Công ty TNHH thương mại sản xuất xuất nhập khẩu V có giá trị là 385.152.000 đồng”.
Quá trình điều tra, xác định nguồn gốc số mỹ phẩm thu giữ trên xe ô tô nhãn hiệu KIA BKS 88H-000.xx và tại nhà ở của Võ Văn L cũng như số đồ vật thu giữ tại kho của Lâm Thị N như sau:
Do kinh doanh buôn bán mỹ phẩm online qua mạng xã hội Zalo và Facebook từ năm 2018, N biết các sản phẩm mỹ phẩm Lady care (gọi là dung dịch vệ sinh phụ nữ) nhãn hiệu LINH HƯƠNG; RIC SKIN Nightcream (gọi là kem trị nám) nhãn hiệu RIC SKIN; DETOX MASK (gọi là mặt nạ thải độc) nhãn hiệu DETOX BLANC; ESSENCE PEPTIDE (gọi là serum trị mụn) nhãn hiệu DETOX BLANC và MASK MILK CREAM (gọi là mặt nạ ủ trắng) nhãn hiệu LSKIN WHITE được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng, dễ tiêu thụ nên đã nảy sinh ý định làm giả các sản phẩm mỹ phẩm của các nhãn hiệu này để bán kiếm lời. Để thực hiện việc sản xuất mỹ phẩm giả, N vào mạng xã hội Facebook tìm kiếm các nhóm kinh doanh, buôn bán mỹ phẩm và tham gia vào các nhóm này rồi đặt mua các loại nguyên liệu mỹ phẩm đã pha trộn sẵn, chai lọ, vỏ hộp giấy, tem nhãn có in sẵn tên các sản phẩm mỹ phẩm của các nhãn hiệu LINH HƯƠNG, RIC SKIN, DETOX BLANC và LSKIN WHITE, đồng thời mua một số sản phẩm mỹ phẩm Lady care nhãn hiệu LINH HƯƠNG; RIC SKIN Nightcream nhãn hiệu RIC SKIN; DETOX MASK nhãn hiệu DETOX BLANC; ESSENCE PEPTIDE nhãn hiệu DETOX BLANC và MASK MILK CREAM nhãn hiệu LSKIN WHITE chính hãng về làm mẫu để sản xuất mỹ phẩm giả giống với sản phẩm chính hãng. Thời điểm N bắt đầu sản xuất mỹ phẩm giả đối với từng loại là mỹ phẩm Lady care sản xuất từ giữa tháng 03/2020; mỹ phẩm RIC SKIN Nightcream sản xuất từ tháng 7/2020; DETOX MASK sản xuất từ tháng 6/2020; mỹ phẩm ESSENCE PEPTIDE sản xuất từ cuối tháng 6/2020 và MASK MILK CREAM sản xuất từ giữa tháng 6/2020.
Khoảng đầu tháng 3/2020, N bắt đầu thuê người sản xuất mỹ phẩm giả, do không mua được nguyên liệu và không có khách hàng nên việc sản xuất mỹ phẩm giả không thường xuyên liên tục, mỗi tháng chỉ làm từ 10 đến 15 ngày. Những người được N thuê sản xuất mỹ phẩm chủ yếu là làm thêm và làm thời vụ nên người làm thuê cho N lâu nhất được khoảng 5 tháng, người làm ít nhất khoảng 06 đến 07 ngày, một số người là người thân trong gia đình trong lúc rảnh rỗi đã tham gia giúp đỡ đóng gói mỹ phẩm cho N mà không lấy tiền công, cụ thể những người N thuê và nhờ tham gia vào hoạt động sản xuất mỹ phẩm gồm: Nguyễn Văn D, sinh năm 2000, trú tại: Thôn A, xã N, thành phố P, tỉnh V; Nguyễn Văn T, sinh năm 2000, trú tại: Xã P, huyện N, tỉnh Ni; Tạ Xuân H, sinh năm 2001, trú tại thôn T80, xã N, thành phố P, tỉnh V; Ngô Quang H, sinh năm 2000, trú tại: Xã P, huyện N, tỉnh N; Nguyễn Văn T, sinh năm 1998, Dương Thị H, sinh năm 1973, Dương Quang H, sinh năm 2005, Nguyễn Văn S, sinh năm 1990, Lương Thị T, sinh năm 1961 (mẹ đẻ của N), Phan Thị L, sinh năm 1962 (mẹ chồng của N), Võ Văn L, sinh năm 1987, Cao Thị Ngọc H, sinh năm 2005 (cháu gọi N là mợ), Trần Thị H, sinh năm 1983 đều trú tại xã N, thành phố P, tỉnh V; Bùi Văn H, sinh năm 1995, trú tại: thôn Xuân Hòa 2, xã C, thành phố P, tỉnh V; Trần Thị T, sinh năm 1989, trú tại: Phố L, xã P, huyện T, tỉnh H và một người phụ nữ tên Nh, sinh năm 1998 ở tỉnh H (N không biết họ, tên đệm và địa chỉ, số điện thoại của Nh). N trả tiền thuê nhân công là 200.000đ/người/ngày, việc sản xuất mỹ phẩm giả N chỉ nói cho Võ Văn L (anh cùng mẹ khác cha với N) biết, những người còn lại không ai biết N sản xuất mỹ phẩm giả vì N nói làm nghề buôn bán mỹ phẩm, được các Công ty mỹ phẩm ký hợp đồng ủy quyền cho sản xuất mỹ phẩm.
Địa điểm sản xuất mỹ phẩm giả là phần sân phía sau nhà N ở được lợp mái tôn có diện tích khoảng 25m2 và căn nhà tôn có diện tích khoảng 30 m2 đến 40m2 trên diện tích đất N mượn của chị Dương Thúy L, sinh năm 1985, trú tại: Số nhà 3810, Chung cư G, số 136 H, quận B, thành phố H là chị ruột chồng N.
Phương thức sản xuất mỹ phẩm giả là: Sau khi mua nguyên liệu trộn sẵn (dung dịch lỏng chứa trong các túi nilon), các loại chai, lọ, vỏ hộp đựng in sẵn tên các nhãn hiệu mỹ phẩm và tem nhãn của các loại mỹ phẩm. Khi cần sản xuất mỹ phẩm mang nhãn hiệu nào thì N chỉ đạo T, D, H, H1 dùng xilanh hút dung dịch mỹ phẩm nguyên liệu từ các túi nilon chứa mỹ phẩm đã pha trộn sẵn, cụ thể: Khi sản xuất mỹ phẩm Lady care nhãn hiệu LINH HƯƠNG thì lấy ở bịch nilon chứa gel trong vàng nhạt; sản xuất mỹ phẩm RIC SKIN Nightcream nhãn hiệu RIC SKIN thì lấy ở bịch nilon chứa dung dịch dạng kem màu xanh; sản xuất DETOX MASK nhãn hiệu DETOX BLANC thì lấy ở dịch nilon chứa dung dịch màu trắng lỏng có bọt; sản xuất mỹ phẩm ESSENCE PEPTIDE nhãn hiệu DETOX BLANC thì lấy ở bịch nilon chứa gel trong như nước và sản xuất mỹ phẩm MASK MILK CREAM nhãn hiệu LSKIN WHITE lấy ở bịch nilon chứa dung dịch đặc màu trắng rồi bơm vào các chai, lọ đã được in sẵn tên các nhãn hiệu mỹ phẩm đó. Còn L, H, S, H, T, Th, L và H1 thực hiện việc đóng nắp, dán tem nhãn, gấp hộp, đóng hộp, bọc màng co nilon các sản phẩm mỹ phẩm. Đến cuối tháng 6/2020, N thấy việc mua nguyên liệu trộn sẵn để sản xuất mỹ phẩm giả không thu được nhiều lợi nhuận, N nảy sinh ý định mua nguyên liệu về tự trộn rồi đặt mua 01 máy trộn mỹ phẩm và các loại nguyên liệu hóa chất như: Chất tạo màu, tạo mùi thơm, chất bảo quản và các thùng phi để ở căn nhà tôn. Đầu tháng 7/2020, vì không muốn T biết mục đích pha trộn nguyên liệu để sản xuất mỹ phẩm giả, N nói với Tú là đang nghiên cứu, trộn thử nguyên liệu để sản xuất một nhãn hiệu mỹ phẩm mang thương hiệu của N và chỉ đạo T hai lần trộn nguyên liệu N mua sẵn để sản xuất mỹ phẩm giả, nhưng sau khi trộn thì dung dịch trộn ra không đạt chất lượng, không dùng sản xuất mỹ phẩm giả được nên N tiếp tục mua dung dịch đã trộn sẵn trên mạng xã hội về sản xuất mỹ phẩm giả. Nguyên liệu để sản xuất mỹ phẩm giả N đặt mua trên mạng xã hội, người bán sẽ giao hàng thông qua gửi xe khách tuyến M đi P, M đi V, hoặc có lần giao hàng tại nhà N. Việc thanh toán tiền mua nguyên liệu, vỏ hộp, tem nhãn của các nhãn hiệu mỹ phẩm giả đa số đều qua lái xe ô tô khách, có một vài lần nộp tiền vào tài khoản của người bán (N không nhớ số tài khoản đã nộp tiền và không nhớ đến những ngân hàng nào để nộp tiền), nên N không nhớ là mua nguyên liệu của những ai, tên tuổi và địa chỉ của những người bán hàng cho N.
Sau khi sản xuất được một lượng mỹ phẩm giả, N vào mạng xã hội Facebook đăng bán các sản phẩm mỹ phẩm Lady care nhãn hiệu LINH HƯƠNG; RIC SKIN Nightcream nhãn hiệu RIC SKIN; DETOX MASK nhãn hiệu DETOX BLANC; ESSENCE PEPTIDE nhãn hiệu DETOX BLANC và MASK MILK CREAM nhãn hiệu LSKIN WHITE do N sản xuất với giá thấp hơn nhiều lần sản phẩm chính hãng, cụ thể: Sản phẩm Lady care bán với giá 20.000 đồng/hộp, RIC SKIN Nightcream giá 19.000 đồng/hộp, DETOX MASK giá 15.000 đồng/hộp, ESSENCE PEPTIDE giá bán 8.000 đồng/hộp và MASK MILK CREAM giá 17.000 đồng/hộp. Đến tháng 8/2020, có một số khách đặt mua một số sản phẩm mỹ phẩm do N sản xuất giả qua Facebook, N và người mua thỏa thuận với nhau là N sẽ gửi hàng cho người mua bằng xe khách đến Bến xe M, thành phố H, nhận hàng xong người mua sẽ gửi tiền mua hàng qua nhà xe mà N gửi hàng để trả cho N khi chạy chiều về qua thành phố P. Khi không trực tiếp nhận nguyên liệu hoặc vận chuyển mỹ phẩm giả bán cho người mua thì N sẽ chỉ đạo Võ Văn L hoặc thuê anh Đinh Văn T, sinh năm 1991, trú tại: Thôn Yên Đ, xã C, thành phố P, tỉnh V là người kinh doanh vận tải vận chuyển theo yêu cầu của N. Khoảng tháng 6/2020, do mỹ phẩm sản xuất ra nhiều nhưng không bán được, N bảo L cho N để nhờ số mỹ phẩm giả sản xuất ra chưa bán được và số mỹ phẩm sản xuất được hàng ngày sang để tại lán để xe nhà L (cách nhà N khoảng 100m), L đồng ý. Đến cuối tháng 8/2020, do ảnh hưởng của dịch bệnh covid không bán được hàng nên N dừng sản xuất mỹ phẩm giả, cho những người N thuê sản xuất mỹ phẩm nghỉ việc. Toàn bộ số mỹ phẩm sản xuất được được cất giữ tại lán xe nhà L, còn tại nhà ở của N chỉ còn một số nguyên liệu, máy móc và dung dịch chưa sử dụng để sản xuất mỹ phẩm. Do không lập sổ sách theo dõi hoạt động sản xuất, kinh doanh nên N không xác định được số lượng từng loại mỹ phẩm đã sản xuất giả, bán ra những loại mỹ phẩm giả nào, số lượng bao nhiêu chỉ nhớ tổng số tiền thu được từ việc bán mỹ phẩm giả khoảng 30.000.000đ. Do sản xuất thủ công, máy móc thô sơ nên mỗi ngày N chỉ sản xuất được từ 03 đến 05 thùng mỹ phẩm tùy loại, toàn bộ số mỹ phẩm Cơ quan điều tra tạm giữ là số mỹ phẩm sản xuất từ tháng 3/2020 đến tháng 8/2020 N chưa bán được.
Ngày 09/9/2020, khi N đang ở thành phố H thì có người liên hệ qua mạng xã hội Facebook đặt mua 04 thùng mỹ phẩm Lady care nhãn hiệu LINH HƯƠNG, 50 hộp mỹ phẩm MASK MILK CREAM nhãn hiệu LSKIN WHITE và 03 thùng mỹ phẩm ESSENCE PEPTIDE, với giá là 8.000.000đ. N và người mua hàng thỏa thuận là giao nhận hàng bằng hình thức N gửi hàng qua xe ô tô khách xuống Bến xe M để người mua nhận và thanh toán tiền trực tiếp cho nhà xe, khi nào xe khách về qua V thì sẽ liên hệ với N ra nhận tiền. Sau đó, N gọi điện chỉ đạo L sáng ngày 10/9/2020 vận chuyển 04 thùng mỹ phẩm Lady care nhãn hiệu LINH HƯƠNG và 50 hộp mỹ phẩm LSKIN WHITE gửi xe khách đi Bến xe M, buổi chiều vận chuyển 03 thùng mỹ phẩm nhãn hiệu ESSENCE PEPTIDE gửi xe khách đi Bến xe M, gửi xong thì lấy số điện thoại và biển số xe báo cho N để N báo lại cho khách hàng. Trưa ngày 10/9/2020, L đã điều khiển xe tải nhãn hiệu KIA, BKS 88H-000.xx của gia đình L vận chuyển 04 thùng mỹ phẩm Lady care nhãn hiệu LINH HƯƠNG, 50 hộp mỹ phẩm nhãn hiệu LSKIN WHITE ra quốc lộ 2A (đoạn gần Công ty Honda V) gửi xe khách vận chuyển xuống Bến xe M, gửi xong L thông báo cho N biết số điện thoại nhà xe và biển số xe khách đã gửi hàng để N liên hệ với người mua nhận hàng và trả tiền. Đến khoảng hơn 13 giờ ngày 10/9/2020, L tiếp tục vận chuyển 03 thùng mỹ phẩm giả ESSENCE PEPTIDE đi ra hướng Quốc lộ 2A để gửi xuống Bến xe M thì bị Công an thành phố P kiểm tra thu giữ 03 thùng mỹ phẩm giả ESSENCE PEPTIDE. Thấy vậy, L đã gọi điện thoại cho N thông báo về việc bị Công an thành phố P thu giữ 03 thùng mỹ phẩm giả thì lúc này N đang điều khiển xe máy trên đường, N nghe điện thoại của L báo về việc bị bắt, do lo sợ hốt hoảng nên N làm rơi chiếc điện thoại có tài khoản Facebook sử dụng để liên hệ với những người bán nguyên liệu sản xuất mỹ phẩm giả, người mua mỹ phẩm giả, số điện thoại nhà xe L gửi hàng nên đến nay N không nhớ đã mua nguyên liệu sản xuất mỹ phẩm giả của ai, bán mỹ phẩm giả cho ai và không có số điện thoại nhà xe để nhận tiền bán mỹ phẩm giả L gửi sáng ngày 10/9/2020. Toàn bộ số mỹ phẩm Công an thành phố P thu giữ tại lán để xe của nhà Võ Văn L đều là mỹ phẩm giả do N sản xuất để bán kiếm lời.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã làm việc với các Công ty có nhãn hiệu mỹ phẩm bị Lâm Thị N sản xuất giả gồm: Công ty T, Công ty V, Công ty K; Công ty Đ và Công ty T, xác định:
- Công ty T sản xuất, phân phối ra thị trường 23 loại mỹ phẩm, trong đó có sản phẩm mỹ phẩm Lady care LINH HƯƠNG. Công ty T không ủy quyền, ký hợp đồng thuê tổ chức, cá nhân nào trên địa bàn tỉnh V sản xuất mỹ phẩm mang nhãn hiệu của Công ty. Bà Nguyễn Thị H - Giám đốc Công ty T và là chủ sở hữu nhãn hiệu “beauty of Nature, hình” bảo hộ theo Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 288964, (ngày nộp đơn 21/7/2015, ngày cấp 04/10/2017, thời hạn hiệu lực 21/7/2025) cho sản phẩm “mỹ phẩm, tinh dầu” thuộc nhóm 03 đã đồng ý cho Công ty T sử dụng nhãn hiệu “beauty of Nature, hình” để sản xuất nhãn hiệu mỹ phẩm “Linh Hương”.
- Công ty V là đơn vị sản xuất các sản phẩm DETOX MASK và ESSENCE PEPTIDE thuộc nhãn hiệu DETOX BLACE đang lưu thông rộng rãi trên thị trường. Công ty V không ủy quyền hoặc giao cho cá nhân nào ở tỉnh V sản xuất, đóng gói các sản phẩm DETOX MASK, ESSENCE PEPTIDE.
- Công ty T (AGELESS CO.,LTD), MSDN: 0101141977, địa chỉ: Tầng 11, số 102 đường T, phường M, quận H, thành phố H, kết quả: Công ty T được bà Nguyễn Thị Bích M ủy quyền làm đại diện sở hữu công nghiệp nhãn hiệu “LINH HƯƠNG” từ ngày 25/9/2015 đến ngày 06/7/2025, Công ty T đã trao đổi với bà Nguyễn Thị Bích M và thống nhất không có yêu cầu xử L đối với các cá nhân liên quan trong vụ án Lâm Thị N cùng đồng phạm sản xuất hàng giả, Công ty T và bà Nguyễn Thị Bích M sẽ làm đơn tố giác đến Công an thành phố H tố cáo Công ty T xâm phạm nhãn hiệu “Linh Hương”.
- Công ty Đ là đơn vị sản xuất sản phẩm mỹ phẩm LSKIN WHITE, Công ty có đăng ký nhãn hiệu sản phẩm LSKIN WHITE với Cục Sở hữu trí tuệ nhưng chưa được cấp phép bảo hộ, đang trong thời gian chờ kết quả đăng ký tác quyền cho nhãn hiệu LSKIN WHITE. Từ khi thành lập đến nay Công ty Đ không ủy quyền cho Lâm Thị N, sinh năm 1991, trú tại: thôn T80, xã N, thành phố P, tỉnh V sản xuất, đóng gói sản phẩm mỹ phẩm nhãn hiệu LSKIN WHITE.
- Công ty K là đơn vị sản xuất sản phẩm mỹ phẩm RIC SKIN, Công ty có đăng ký nhãn hiệu KOHINOOR “Diamond Care K, hình” với Cục Sở hữu trí tuệ nhưng chưa được cấp phép bảo hộ.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2022/HS-ST ngày 21/01/2022, Tòa án nhân dân tỉnh V đã quyết định:
Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 192; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lâm Thị N 05 (năm) năm tù về tội “Sản xuất hàng giả”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
Căn cứ Điều 41; khoản 4 Điều 192 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, phạt bổ sung bị cáo Lâm Thị N số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước; cấm bị cáo Lâm Thị N hành nghề kinh doanh mỹ phẩm trong thời hạn 01 (một) năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Võ Văn Lý; xử L vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 28/01/2022, bị cáo Lâm Thị N kháng cáo xin giảm hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Lâm Thị N vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và thừa nhận hành vi trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8/2020, bị cáo đã mua nguyên liệu mỹ phẩm trộn sẵn không rõ nguồn gốc và các loại chai lọ, vỏ hộp in sẵn tên các nhãn hiệu mỹ phẩm, tem nhãn của các sản phẩm mỹ phẩm nổi tiếng rồi bán ra thị trường, vì mục đích thu lợi bất chính, như Tòa án cấp sơ thẩm quy kết, với tổng số tiền mà bị cáo hưởng lợi bất chính là 30.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Sản xuất hàng giả” là đúng người, đúng tội, không oan; bị cáo xin giảm hình phạt với L do sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án; hiện nay hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, là lao động chính trong gia đình, phải nuôi 4 con nhỏ, chồng không có việc làm ổn định; mẹ chồng già yếu; sau khi xét xư sơ thẩm, bị cáo đã lại toàn bộ số tiền bị phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm, mong Tòa xem xét cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo Lâm Thị N phù hợp với lời khai của bị cáo khác đã bị xét xử trong cùng vụ án; phù hợp lời khai người liên quan; người làm chứng; phù hợp các kết luận giám định; phù hợp khách quan với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và xử phạt bị cáo Lâm Thị N về tội “Sản xuất hàng giả” theo điểm a khoản 3 Điều 192 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Sau khi tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, đánh giá các tình tiết có trong hồ sơ vụ án cũng như hành vi phạm tội cụ thể bị cáo, đánh giá việc tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có tình tiết mới như: bản thân là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận; bị cáo đã nộp tiền phạt bổ sung 50.000.000 đồng và án phí sơ thẩm theo quyết định của bản án sơ thẩm. Đồng thời, đánh giá nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 355, 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cụ thể giảm cho bị cáo từ 01 đến 02 năm tù.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, trình bày của bị cáo,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử không có khiếu nại về hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng, nên các tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ là hợp pháp. Đơn kháng cáo của bị cáo Lâm Thị N trong hạn luật định, nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục xét xử phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lâm Thị N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại Cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của bị cáo Võ Văn L đã bị xét xử trong vùng vụ án; phù hợp lời khai người liên quan;
người làm chứng; phù hợp với các kết luận giám định; cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2020 đến cuối tháng 8/2020, tại khu nhà tạm của chị Dương Thị L ở thôn T80, xã N, thành phố P, tỉnh V, bị cáo Lâm Thị N đã có hành vi mua nguyên liệu mỹ phẩm trộn sẵn không rõ nguồn gốc và các loại chai lọ, vỏ hộp in sẵn tên các nhãn hiệu mỹ phẩm, tem nhãn của các sản phẩm mỹ phẩm gồm: Lady care (dung dịch vệ sinh phụ nữ) nhãn hiệu LINH HƯƠNG của Công ty T, DETOX MASK (mặt nạ thải độc) và ESSENCE PEPTIDE (serum trị mụn) đều mang nhãn hiệu DETOX BLANC của Công ty V, sau đó chỉ đạo bị cáo Võ Văn L cùng một số người làm thuê sản xuất mỹ phẩm giả đem về cất giấu tại lán để xe của nhà bị cáo Võ Văn L với mục đích bán ra thị trường để kiếm lời. Chiều ngày 10/9/2020, khi bị cáo Võ Văn L đang điều khiển xe ô tô tải nhãn hiệu KIA, BKS 88H- 000.xx vận chuyển 03 thùng carton bên trong có chứa 1.080 hộp ESSENCE PEPTIDE nhãn hiệu DETOX BLANC giả đi tiêu thụ thì bị Công an bắt quả tang. Khám xét nơi ở của bị cáo Lý đã thu giữ gồm: 103 thùng carton chứa 10.300 hộp Lady care nhãn hiệu LINH HƯƠNG; 01 thùng carton chứa 164 hộp DETOX MASK nhãn hiệu DETOX BLANC; 06 thùng carton chứa 2.184 hộp ESSENCE PEPTIDE nhãn hiệu DETOX BLANC; 13 thùng carton chứa 2.548 hộp MASK MILK CREAM nhãn hiệu LSKIN WHITE; 21 thùng carton chứa 2.208 hộp RIC SKIN Night cream nhãn hiệu RIC SKIN; 06 thùng carton chứa 5400 sản phẩm son môi nhãn hiệu CREAMY MATTE LIPSTICK và 25 thùng carton bên trong chứa 5.000 lọ làm bằng nhựa, trên lọ có ghi chữ “DETOX MASK”. Kết quả giám định và xác minh tại Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ xác định toàn bộ số mỹ phẩm Lady care nhãn hiệu LINH HƯƠNG, DETOX MASK nhãn hiệu DETOX BLANC và ESSENCE PEPTIDE nhãn hiệu DETOX BLANC thu giữ của Lâm Thị N đều là hàng giả. Tổng số 10.300 hộp Lady care nhãn hiệu LINH HƯƠNG, 164 hộp DETOX MASK và 3.264 hộp ESSENCE PEPTIDE của nhãn hiệu DETOX BLANC tương đương với hàng thật có tổng giá trị là 963.460.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lâm Thị N về tội “Sản xuất hàng giả” theo điểm a khoản 3 Điều 192 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xác định hành vi phạm tội và tội danh đối với bị cáo Võ Văn L; tuy nhiên, bị cáo Võ Văn L không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo Lâm Thị N, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý thị trường của Nhà nước, đồng thời xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sản xuất và người tiêu dùng, gây mất trật tự trị an và an toàn cho xã hội. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, đã tố giác tội phạm trong vụ cướp tài sản được Chủ tịch UBND thành phố P tặng thưởng Giấy khen; bị cáo N là người dân tộc thiểu số, có phần hạn chế về nhận thức pháp luật; gia đình có công với Nhà nước, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo mức án 05 năm tù là có căn cứ. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo tiếp tục tỏ thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội và xuất trình các tài liệu thể hiện, hiện nay hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, phải nuôi 04 con nhỏ, mẹ chồng già yếu, được chính quyền địa phương xác nhận; biên lai thể hiện việc bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền phạt 50.000.000 đồng và án phí hình sự sơ thẩm theo bản án sơ thẩm đã tuyên, thể hiện thái độ tích cực chấp hành bản án của bị cáo, đây là các tình tiết mới đối với bị cáo, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm vào khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo. Vì vậy, xét thấy, bị cáo Lâm Thị N có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; trên cơ sở đánh giá tính chất hành vi, hậu quả tội phạm, việc khắc phục hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, nhân thân bị cáo, thái độ chấp hành pháp luật; Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trình bày tại phiên tòa, để bị cáo có động lực tích cực cải tạo tốt, sớm có cơ hội hòa nhập với gia đình và xã hội, đồng thời cũng thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[5] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Lâm Thị N được chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[6] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản L và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lâm Thị N; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2022/HS-ST ngày 21/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh V về phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Lâm Thị N, cụ thể:
- Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 192; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt: Bị cáo Lâm Thị N 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Sản xuất hàng giả”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
- Căn cứ Điều 41; khoản 4 Điều 192 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, phạt bổ sung bị cáo Lâm Thị N số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước; cấm bị cáo Lâm Thị N hành nghề kinh doanh mỹ phẩm trong thời hạn 01 (một) năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù. Ghi nhận bị cáo Lâm Thị N đã nộp tiền phạt bổ sung, án phí hình sự sơ thẩm, tổng số tiền 50.200.000 đồng, tại Biên lai thu tiền số 0000362 ngày 13/9/2023, Biên lai thu tiền số 0000370 ngày 14/9/2023 và Biên lai thu tiền số 0000371 ngày 14/9/2023 đều của Cục Thi hành án dân sự tỉnh V.
[2]. Về án phí: Bị cáo Lâm Thị N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[3]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 734/2023/HS-PT về tội sản xuất hàng giả
Số hiệu: | 734/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về