Bản án 73/2022/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 73/2022/HS-ST NGÀY 30/12/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30/12/2022, tại Hội trường thôn STA1, xã ĐR, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 72/2022/HSST ngày 13/12/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2022/QĐXXST-HS ngày 15/12/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Cill Pam Ha L; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 09/11/1988 tại Lâm Đồng; Hộ khẩu thường trú: Số 170, Thôn STA1, xã ĐR, huyện Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tring; Nghề nghiệp: Làm nông; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 01/12; Con ông: Cill Pam Ha R, sinh năm 1959 và con bà Ca Thị L, sinh năm 1963. Hiện ở số 170, thôn STA1, xã ĐR, huyện Đ, Lâm Đồng; Anh, Chị, Em ruột: Có 04 người lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 1993, bị cáo là con thứ 4 trong gia đình; Tiền án, Tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án 02/HSST ngày 13/01/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt Cill Pam Ha L 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng về tội “Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”; Bản án số 06/2010/HSST ngày 28/7/2010, Tòa án nhân dân huyện Lạc Dương xử phạt Cill Pam Ha L 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 01/9/2016.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ từ ngày 21/8/2022 cho đến nay. Có mặt.

- Bị hại:

1. Anh Lê Nguyễn An Kh; sinh năm: 1995; Nơi cư trú: Số 222, thôn STB1, xã ĐR, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

2. Bà Phan Thị Ng; sinh năm: 1971; Nơi cư trú: Tổ 11, thôn Phi Nôm, xã H, huyện Đức T, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

3. Bà Mai Thị M; sinh năm: 1963; HKTT: Tổ 8, thôn Bắc Hội, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; Nơi cư trú: Số nhà 25, thôn 1, xã ĐR, huyện Đ, Lâm Đồng. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Kon Sơ Li S; sinh năm: 1984; Nơi cư trú: Thôn STA2, xã ĐR, huyện Đ, Lâm Đồng. Có mặt.

2. Anh Hà P; sinh năm: 1990; Nơi cư trú: Thôn STA2, xã ĐR, huyện Đ, Lâm Đồng. Có mặt.

3. Anh Ka Să Ha Si M; sinh năm: 1974; Nơi cư trú: Thôn STA1, xã ĐR, huyện Đ, Lâm Đồng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 21/08/2022, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an huyện Đ phối hợp Công an xã ĐR phát hiện tại số nhà 170 thôn STA1, xã ĐR, huyện Đ, Cill Pam Ha L có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trên tủ đựng quần áo trong phòng ngủ của Cill Pam Ha L có 01(một) gói nylon kích thước (05x03)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy và 01(một) gói nylon kích thước (08x03cm) bên trong chứa thảo mộc khô nghi là cần sa nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Cill Pam Ha L và niêm phong số tang vật có liên quan. Quá trình điều tra, Cill Pam Ha L khai nhận do có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào khoảng cuối năm 2021, Ha L được 01 (một) người thanh niên không rõ tên, nhân thân lai lịch ở huyện Lâm Hà cho 01(một) gói nylon bên trong có chứa cần sa và 01 gói nylon bên trong có chứa ma túy đá nên Ha L mang về nhà cất giấu trên tủ đựng quần áo để sử dụng. Sau đó, bị Cơ quan Công an phát hiện và bắt giữ. (BL 91,98,102) Tại kết luận giám định số 933/KL-KTHS ngày 25/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: (BL 29) + Mẫu tinh thể (M1) đựng trong một gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,9013 gam, loại Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

+ Mẫu lá cây thực vật khô (M2) được niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,7153g là cần sa.

Cần sa là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT: 45, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ Ngoài ra, Quá trình điều tra, Cill Pam Ha L còn tự khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn xã ĐR, huyện Đ cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất:

Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 14/7/2022, Cill Pam Ha L trong lúc đi bắt cá ở khu vực sông Đa Nhim. Khi đi bộ ngang qua khu vườn rau của anh Lê Nguyễn An Kh ở thôn STB1, xã ĐR, huyện Đ thì Ha L nhìn thấy trước chòi của anh Kh dựng 01 (một) xe môtô nhãn hiệu PRETY loại xe Wave, biển kiểm soát 49S8- Đ0 trên xe cắm sẵn chìa khóa, không có người trông coi nên Ha L đi đến nổ máy rồi điều khiển xe chạy về nhà cất giấu. Đến hôm sau, Ha L lấy chiếc xe đã trộm cắp được bán cho anh Kon Sơ Li S ở cùng thôn được số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 41/KL-ĐGTS ngày 08/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định 01 xe môtô nhãn hiệu Prety, loại xe Wave, biển kiểm soát 49S8-Đ0 bị Ha L chiếm đoạt có giá trị là 2.850.000 đồng (Hai triệu tám trăm năm mươi Ngn đồng) (BL 37, 92, 104)

Vụ thứ hai:

Vào khoảng 11 giờ ngày 07/8/2022, Cill Pam Ha L trong khi đi bộ từ nhà đến khu vực đồi thông thuộc thôn 1, xã ĐR, huyện Đ để bẫy chim thì nhìn thấy tại đoạn đường đất đi vào Công ty Hasfram dựng sát lề đường 01(một) xe môtô nhãn hiệu NONGSAN, loại xe Dream, biển kiểm soát 49N6-S5 của bà Phan Thị Ng ở thôn Phi Nôm, xã Hiệp Thạnh, huyện Đức Trọng trên xe cắm sẵn chìa khóa, không có người trông coi nên Ha L đi đến nổ máy rồi điều khiển xe môtô chạy về nhà cất giấu. Đến khoảng 07 (bảy) ngày sau, Ha L lấy chiếc xe đã trộm cắp được bán cho anh H ở cùng thôn được số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 41/KL-ĐGTS ngày 08/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định 01 xe môtô nhãn hiệu NONGSAN, loại xe Dream, biển kiểm soát 49N6-S5 bị Ha L chiếm đoạt có giá trị là 1.950.000 đồng (Một triệu chín trăm năm mươi Ngn đồng) (BL 93,102,126,128)

Vụ thứ ba:

Vào khoảng 09 giờ ngày 17/8/2022, Cill Pam Ha L trong khi đi bộ từ nhà đến đồi thông thuộc Thôn 1, xã ĐR, huyện Đ để bẫy chim thì nhìn thấy ở lề đường trước vườn của bà Mai Thị M ở Thôn 1, xã ĐR, huyện Đ dựng 01(một) xe môtô nhãn hiệu MINGXING loại xe Dream, biển kiểm soát 49S5- S2 trên xe cắm sẵn chìa khóa, không có người trông coi nên Ha L đi đến và nổ máy điều khiển xe chạy về nhà cất giấu. Sau đó, Ha L bán cho anh Ka Să Ha Si Me ở cùng thôn được số tiền 800.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 41/KL-ĐGTS ngày 08/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định 01 (một) xe môtô nhãn hiệu MINGXING, loại xe Dream, biển kiểm soát 49S5- S2 bị Ha L chiếm đoạt có giá trị là 1.900.000 đồng (Một triệu chín trăm Nghiềnn đồng) (BL 93,102,135,139) Cáo trạng số 01/CT-VKSĐD ngày 12/12/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo Cill Pam Ha L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 và tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Cill Pam Ha L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Cill Pam Ha L từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bao gói vật chứng, số ma túy còn lại sau giám định và các dụng cụ sử dụng ma túy.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Cill Pam Ha L từ 09 đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội.

Bị cáo không khiếu nại bản cáo trạng, khai nhận: Bị cáo sử dụng ma túy từ đầu năm 2021. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào khoảng cuối năm 2021, Ha L được 01 (một) người thanh niên tên C không rõ nhân thân lai lịch ở huyện Lâm Hà cho 01(một) gói nylon bên trong có chứa cần sa và 01 gói nylon bên trong có chứa ma túy đá nên Ha L mang về nhà cất giấu trên tủ đựng quần áo để sử dụng. Đến ngày 21/08/2022, bị cơ quan Công an phát hiện và bắt giữ. Ngoài ra, trong tháng 7 và 8/2022, bị cáo có 03 lần trộm 03 chiếc xe mô tô như cáo trạng nêu. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 21/8/2022 tại nhà của Cill Pam Ha L ở thôn STA1, xã ĐR, huyện Đ. Cill Pam Ha L có hành vi tàng trữ trái phép khối lượng 0,9013g ma túy, loại Methamphetamine và 0,7153g ma túy, loại cần sa. Ngoài ra, vào ngày 17/8/2022 tại thôn STB1, xã ĐR, huyện Đ, Cill Pam Ha L có hành vi trộm cắp tài sản là 01 (một) xe môtô của anh Lê Nguyễn An Kh giá trị là 2.850.000 đồng.

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp với kết luận giám định, biên bản phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,9013g loại Methamphetamine và 0,7153g loại cần sa và trộm cắp tài sản của người khác có trị giá 2.850.000 đồng nêu trên của Cill Pam Ha L đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá tính chất vụ án: Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy được tác hại của ma túy ảnh hưởng đến sức khỏe và cũng là nguyên nhân gây ra các bất ổn xã hội khác nhưng vì nhu cầu cá nhân nên bị cáo tàng trữ để sử dụng. Bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo không tự cai nghiện mà tiếp tục tàng trữ để sử dụng ma túy. Ngoài ra, trong khi đi bẫy chim, bị cáo phát hiện xe máy để không có người trông coi, bị cáo đã lấy trộm đem bán lấy tiền tiêu xài. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, thể hiện tính liều lĩnh, coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện tu dưỡng, rèn luyện thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tự thú về hành vi trộm cắp tài sản và đã nộp tiền khắc phục hậu quả nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Đối với đối tượng cho Cill Pam Ha L ma túy do không rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã tách ra điều tra xử lý sau.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản của người khác vào ngày 07/8/2022 có giá trị là 1.950.000 đồng và ngày 17/8/2022 có giá trị là 1.900.000 đồng của Cill Pam Ha L do không đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là thỏa đáng.

Đối với việc ông Kon Sơ Li S, H, Ka Să Si Me, Nguyễn Thái S mua xe của Ha L nhưng không biết là tài sản do Cill Pam Ha L trộm cắp mà có nên không có căn cứ để xem xét, xử lý trách nhiệm hình sự là đúng.

[6] Về vật chứng:

Đối với mẫu vật hoàn lại sau giám định có khối lượng 0,7007g Methamphetamine và bao gói vật chứng trước giám định được niêm phong cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với mẫu lá cây thực vật khô là cần sa, có khối lượng 0,7153g đã sử dụng hết trong quá trình giám định nên không đề cập đến.

Đối với 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa, 01 ống thủy tinh, 01 ống hút nhựa là tang vật vụ án không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01(một) xe môtô hiệu Prety, loại xe Wave, màu ghi, biển kiểm soát 49S8-Đ0; 01(một) xe môtô hiệu Nongsan, loại xe Dream, màu nâu, biển kiểm soát 49N6-S5; 01(một) xe mô tô hiệu Mingxing, loại xe Dream, màu nâu xanh, biển kiểm soát 49S5- S2. Quá trình điều tra xác định các xe môtô trên chủ sở hữu hợp pháp của ông Lê Nguyễn An Kh, bà Phan Thị Ng, bà Mai Thị M. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã trả lại cho các chủ sở hữu là có căn cứ. Sau khi nhận lại tài sản các chủ sở hữu không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập đến.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Ông Kon Sơ Li S yêu cầu Cill Pam Ha L trả lại số tiền 2.000.000 đồng, ông H yêu cầu Cill Pam Ha L trả lại số tiền 1.000.000 đồng số tiền mua xe môtô do Ha L trộm cắp đã bán. Ha L đồng ý bồi thường cho ông Kon Sơ Li S, ông H số tiền trên. Hiện nay Ha L đã nộp bồi thường.

Riêng ông Nguyễn Thái S mua 01 (một) xe môtô hiệu MINGXING của Kă Să Ha Si Me với giá 800.000 đồng. Qua xác M, hiện nay không có mặt tại địa phương nên cần tách ra xử lý trong vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Cill Pam Ha L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Cill Pam Ha L 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Cill Pam Ha L 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự; Tổng hợp buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 48 (Bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (Ngày 21/8/2022).

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 589 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Cill Pam Ha L có trách nhiệm trả lại cho ông Kon Sơ Li S số tiền 2.000.000đ; trả lại cho ông H số tiền 1.000.000đ (Đã nộp).

Ông Kon Sơ Li S được nhận số tiền 2.000.000đ; ông H được nhận số tiền 1.000.000đ theo Biên lai thu số 0S512 ngày 21/12/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 chai nhựa, 01 ống thủy tinh, 01 ống hút nhựa; 01 bao gói vật chứng trước giám định được niêm phong và 0,7007g ma túy loại Methamphetamine.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/12/2022 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đ.

3. Về án phí: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Cill Pam Ha L phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

78
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 73/2022/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:73/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;