Bản án 73/2021/HSST ngày 06/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN - TỈNH NGHỆ AN

 BẢN ÁN 73/2021/HSST NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 06 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 69/2021/TLST- HS ngày 30 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Hạ Na T; tên gọi khác: Không; sinh ngày 18/8/1990 tại thị trấn M, huyện K, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: K3, thị trấn M, huyện K, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hạ Bá B (đã chết) và bà Mùa Y P; có vợ là Xồng Y C và 01 con; tiền sự: Không; tiền án: 04 tiền án: Ngày 26/9/2012 bị TAND huyện Kỳ Sơn xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 22/12/2013; ngày 20/3/2015 bị TAND huyện Kỳ Sơn xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 10/9/2015; ngày 22/8/2016 bị TAND huyện Kỳ Sơn xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 13/5/2017; ngày 25/9/2017 bị TAND huyện Kỳ Sơn xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 25/4/2020;

bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2020 đến nay; hiện đang tạm giam. Có mặt.

2. Họ và tên: Lô Văn N; tên gọi khác: Lô Đa N; sinh ngày 14/5/1990, tại thị trấn M, huyện K, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: K3, thị trấn M, huyện K, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Thái; giới tính:

Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lô Duy T và bà La Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 29/9/2010 bị TAND huyện Kỳ Sơn xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 30/3/2012, đã được xóa án tích; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2020 đến nay; hiện đang tạm giam; Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lô Duy T; sinh năm 1962; trú tại: K3, thị trấn M, huyện K, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Minh T; sinh năm 1997; trú tại: K4, thị trấn M, huyện K, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ, ngày 15/12/2020, Hạ Na T đang ở nhà tại K3, thị trấn M, huyện K, tỉnh Nghệ An thì có Lô Văn N đến chơi, sau đó N rủ T đi mua ma túy để sử dụng thì T đồng ý. N điều khiển xe máy BKS: 37K1- 158.82 chở T đi vào bản X, xã H, huyện K thì gặp một người đàn ông không quen biết tên T, N và T hỏi mua của người này 04 (bốn) gói ma túy (Heroine) với số tiền 200.000đồng (hai trăm nghìn), do không có tiền nên T lấy điện thoại của mình ra để cắm cho người đàn ông tên T. Sau khi mua được ma túy, T lấy 02 (hai) gói rồi cùng với người đàn ông tên T và N sử dụng, số ma túy còn lại T cất dấu vào túi quần bên phải rồi điều khiển xe máy chở N đi về. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi T Và N về đến khu vực k4, thị trấn M, huyện K, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác Công an xã Nậm Cắn, Công an Thị trấn Mường Xén và Công an xã Hữu Kiệm phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ số tang vật trên.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 18 giờ, ngày 15/12/2020 đã xác định:

- 02 (hai) gói chất màu trắng (nghi là ma túy) gói bằng giấy trắng có dòng kẻ thu giữ của Hạ Na T và Lô Văn N có tổng khối lượng là 0,4gam (không phẩy bốn).

Kết luận giám định số 04/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 19/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu chất màu trắng thu giữ của Hạ Na T và Lô Văn N gửi tới giám định là ma túy (Heroine).

Tại Cơ quan điều tra, Hạ Na T và Lô Văn N đã thành khẩn khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội của mình, mục đích tàng trữ trái phép chất ma tuý là để sử dụng.

Về vật chứng của vụ án: Số ma túy (Heroine) sau khi trích mẫu giám định có khối lượng còn lại 0,35gam (không phẩy ba mươi lăm) cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu được niêm phong lại bằng một phong bì thư bưu điện viền xanh đỏ hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Công an huyện Kỳ Sơn; đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE α, màu sơn xanh- đen- bạc, BKS: 37K1- 158.82 mà Hạ Na T và Lô Văn N sử dụng đi mua túy, quá trình điều tra xác định chiếc xe thuộc sở hữu của ông Lô Duy T, sinh năm 1962, trú tại K3, Thị trấn. Ông T không biết việc T và N sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy, nên ngày 20/01/2021 Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông T.

Cáo trạng số: 36/CT-VKS-KS ngày 28/03/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn đã truy tố bị cáo Hạ Na T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự và truy tố bị cáo Lô Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn giữ nguyên nội dung cáo trạng, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Hạ Na T và Lô Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hạ Na T mức án từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng đến 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lô Văn N mức án từ 16 (Mười sáu) đến 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo Hạ Na T và Lô Văn N đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không có tranh luận gì.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định pháp luật.

[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người chứng kiến. Do sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử là có căn cứ, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi của các bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra, các bị cáo Hạ Na T, Lô Văn N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 15/12/2020, tại k4, Thị trấn M, huyện K, tỉnh Nghệ An, Hạ Na T và Lô Văn N đang có hành vi tàng trữ 02 (hai) gói ma túy (Heroine) có tổng khối lượng là 0,4gam (không phẩy bốn) nhằm mục đích để sử dụng.

Hành vi phạm tội nêu trên của Hạ Na T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo Lô Văn N đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý, mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)…………………….

c) Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a)………………………… o) Tái phạm nguy hiểm”.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; Nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện. Khi phạm tội các bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế xã hội cũng như sức khỏe của con người và cũng làm mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, nhưng các bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, vì vậy hành vi đó phải được xử lý nghiêm minh, cần tuyên phạt các bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện, việc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới đủ điều kiện để vừa tiếp tục cải tạo, giáo dục riêng bị cáo vừa răn đe phòng ngừa chung.

Đây là vụ án có đồng phạm nên phải phân hóa hành vi của mỗi bị cáo để lên cho mỗi bị cáo một mức án phù hợp với tính chất vai trò của từng bị cáo. Đối với bị cáo Lô Văn N thực hiện tội phạm với vai trò là người khởi xướng, rủ rê, ngoài ra, tại bản án số 41/2010/HSST ngày 29/9/2010 của TAND huyện Kỳ Sơn đã xử phạt bị cáo Lô Văn N 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 30/3/2012, tuy đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục con đường phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật, nên cần phải xem xét mức án cao hơn. Đối với bị cáo Hạ Na T, do bị rủ rê, lôi kéo nhưng đã thực hiện tội phạm một cách tích cực và là người bỏ tiền để mua ma túy, mặc dù trong vụ án này giữ vai trò thứ yếu nhưng bị cáo Hạ Na T phải chịu trách nhiệm do chính hành vi mà mình đã gây ra. Ngoài ra bị cáo Hạ Na T từng có 04 tiền án đều về tội “Trộm cắp tài sản, mới chấp hành xong án phạt tù ngày 25/4/2020, chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội, điều đó chứng tỏ nhân thân bị cáo xấu, có ý thức coi thường kỷ cương pháp luật nên lần phạm tội này của bị cáo là căn cứ định khung hình phạt “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm o khoản 2 Điêu 249 của Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Hạ Na T và Lô Văn N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên xét thấy cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

[6] Trong vụ án này có người đàn ông tên Vi Văn T, trú tại bản X, xã H, huyện K, tỉnh Nghệ An đã bán ma túy cho Hạ Na T và Lô Văn N, quá trình điều tra xác minh tại địa phương không có ai tên là T nên không có căn cứ để xử lý.

[7] Về vật chứng vụ án: Số ma tuý (Heroine) là vật chứng có khối lượng còn lại 0,35gam (Không phẩy ba mươi lăm) và vỏ giấy niêm phong ban đầu, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần phải tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE α, màu sơn xanh- đen- bạc, BKS: 37K1- 158.82 mà Hạ Na T và Lô Văn N sử dụng đi mua túy, quá trình điều tra xác định chiếc xe thuộc sở hữu của ông Lô Duy T, trú tại K3, thị trấn M, huyện K, tỉnh Nghệ An. Ông T không biết việc Hạ Na T và Lô Văn N sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy nên ngày 20/01/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn đã trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu ông Lô Duy T là đúng theo quy định của pháp luật.

[8] Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và mức hình phạt:

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hạ Na T 06 (Sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 15/12/2020).

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lô Văn N; tên gọi khác: Lô Đa N 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 15/12/2020).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) phong bì xanh đỏ đang niêm phong, dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của hội đồng tham gia niêm phong và ghi tên của bị cáo Hạ Na T và Lô Văn N, bên trong có chứa 0,35gam (không phẩy ba mươi lăm) ma túy (Heroine) và vỏ giấy niêm phong ban đầu. (Vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/3/2021 giữa Công an huyện Kỳ Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Hạ Na T và Lô Văn N mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên bố: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án đối với phần có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 06/5/2021)/.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 73/2021/HSST ngày 06/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:73/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;