Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 24/02/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn, nuôi con

 TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 73/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 24 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 944/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình “Ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2021/QĐXX-ST ngày 12 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ P - Sinh năm 1988. Địa chỉ: ấp MT, thị trấn ML, huyện CM, tỉnh An Giang. Nơi cư trú: số 809 ấp LP2, xã LĐB, huyện CM, tỉnh An Giang. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn N - sinh năm 1974. Nơi cư trú: ấp MT, thị trấn ML, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn Bà Nguyễn Thị Mỹ p trình bày: Bà và ông N quen biết, tìm hiểu và kết hôn vào năm 2010 có đăng ký kết hôn. Chung sống đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi nhau do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, cả hai đã cố gắng nhưng không được và không còn chung sống với nhau. Nhận thấy tình cảm không còn yêu cầu được ly hôn với ông N.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Văn N1, sinh ngày 27/01/2011 hiện do bà đang nuôi dưỡng, yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung khi ly hôn không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con,

Về quan hệ tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quan hệ nợ chung: không có.

Bị đơn Ông Nguyễn Văn N đã được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến gởi đến Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bà P khởi kiện yêu cầu ly hôn với Ông Nguyễn Văn N có nơi cư trú tại thị trấn ML, huyện CM, tỉnh An Giang, nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là có căn cứ.

[2]. Về nội dung tranh chấp

Bà Nguyễn Thị Mỹ P và Ông Nguyễn Văn N kết hôn năm 2010 có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân giữa được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Theo Bà P trình bày, vợ chồng chung sống đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do ông N thường hay nhậu về kiếm chuyện chửi và đánh vợ con, hay ghen vô cớ vợ chồng không còn chung sống với nhau từ 2020 đến nay. Nhận thấy, tình cảm không còn, Bà P yêu cầu ly hôn với ông N. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc Bà P yêu cầu ly hôn và triệu tập ông N tham gia các phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa, nhung ông N vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của Bà P. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa Bà P và ông N do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, ông N thường hay uống rượu về kiếm chuyện chửi đánh vợ con dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày mâu thuẫn nhiều hơn và không còn chung sống từ năm 2020 đến nay. Trong thời gian này, hai bên cũng không tạo điều kiện cho nhau hàn gắn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu chung sống với nhau cũng không hạnh phúc. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà P xin ly hôn ông N.

[3] Về quan hệ con chung: Trong thời gian chung sống, Bà P xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Văn N1, sinh ngày 27/01/2011 hiện do Bà P đang nuôi dưỡng. Bà P yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu N1 khi ly hôn không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau, cháu N1 do Bà P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cuộc sống đã ổn định, nguyện vọng cháu N1 cũng mong muốn được tiếp tục chung sống với Bà P, trong quá trình giải quyết ông N cũng không có ý kiến phản đối yêu cầu này của Bà P. Do đó, để Bà P tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nghĩa là phù hợp với pháp luật.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do Bà P không có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[5] Về quan hệ tài sản chung: Bà P không yêu cầu tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[6] Về quan hệ nợ chung: Bà P trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7] Án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà P phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị Mỹ P xin ly hôn Ông Nguyễn Văn N.

Giấy chứng nhận kết hôn số 155 ngày 26/9/2017 do Ủy ban nhân dân thị trấn Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp không còn giá trị pháp lý.

- Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Thị Mỹ P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Văn N1, sinh ngày 27/01/2011. Ông Nguyễn Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Nguyễn Thị Mỹ P cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông N trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về quan hệ tài sản chung: các bên không yêu cầu giải quyết.

- Về quan hệ nợ chung: Không có. Ghi nhận việc Bà P xác định không có nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng sau khi quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì Bà P, ông N phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, Bà Nguyễn Thị Mỹ P phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu số 0009019 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 25/11/2020.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 24/02/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn, nuôi con

Số hiệu:73/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;