Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 15/06/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 73/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 170/2021/TLST-HNGĐ ngày 11/3/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/5/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 63/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28/5/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1986 (vắng mặt).

ĐKTT: Ấp 1A, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai

- Bị đơn: Anh Lê Viết N, sinh năm 1986 (vắng mặt).

ĐKTT: Ấp 1A, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 02/3/2021, trong quá trình làm việc, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc D trình bày: Vào năm 2008, chị và anh N tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc. Sau khi kết hôn, anh chị sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay cãi nhau, anh N không có trách nhiệm với gia đình, vợ con. Nay chị không còn tình cảm với anh N, do đó yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung tên là Lê Hồng Tr, sinh ngày 24/9/2009 và Lê Viết L, sinh ngày 28/6/2014. Hiện nay 02 cháu đang sống cùng với chị D. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.

* Trong quá trình làm việc bị đơn anh Lê Viết N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, vì vậy không có lời trình bày.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc:

Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân theo đúng quy định pháp luật về tố tụng. Nguyên đơn chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, bị đơn không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D, chị D được ly hôn với anh N; Về con chung: giao 02 con chung là Lê Hồng Tr, sinh ngày 24/9/2009 và Lê Viết L, sinh ngày 28/6/2014 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động; chị D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không giải quyết; tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tư cách tham gia tố tụng: Chị Nguyễn Thị Ngọc D có đơn khởi kiện ly hôn với anh Lê Viết N, do đó xác định chị D là nguyên đơn, anh N là bị đơn theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Ngọc D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Lê Viết N đã được triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, tiến hành xét xử vắng mặt chị D, anh N là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc D và anh Lê Viết N tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Hưng, do đó quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[4] Theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy: Chị D cho rằng, nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay cãi nhau, cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc. Anh N đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc, anh N biết việc ly hôn nhưng vẫn vắng mặt không lý do, cho thấy anh N không có thiện chí trong việc hòa giải đoàn tụ vợ chồng. Hơn nữa, theo kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của anh chị tại địa phương cho thấy anh N có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương, tuy nhiên anh chị không còn sống chung với nhau nữa. Như vậy, chứng tỏ mâu thuẫn giữa anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Ngọc D yêu cầu được nuôi 02 con chung, anh N vắng mặt nên không có lời trình bày. Xét thấy, cháu L còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của mẹ, cháu L Hồng Tr có nguyện vọng được sống với chị D. Vì vậy, cần thiết giao 02 con chung cho chị Nguyễn Thị Ngọc D trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các cháu, là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình và nguyện vọng của con chung.

[6] Chị D không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung, nên không xem xét giải quyết.

[7] Về tài sản chung: Chị D không yêu cầu giải quyết, anh N không có lời khai, nên không xem xét giải quyết.

[8] Về nợ chung: Chị D trình bày không có, anh N không có lời khai, nên không giải quyết.

[9] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc D phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[10] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận .

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 9, 11 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 131, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về Án phí và Lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc D ly hôn anh Lê Viết N.

2. Về con chung: Giao 02 cháu Lê Hồng Tr, sinh ngày 24/9/2009 và Lê Viết L, sinh ngày 28/6/2014 cho chị Nguyễn Thị Ngọc D trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị D không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

Anh N được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc D phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004803 ngày 02/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc được chuyển thành án phí. Chị D đã nộp đủ.

Chị Nguyễn Thị Ngọc D, anh Lê Viết N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 15/06/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:73/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;