Bản án 73/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BẢN ÁN 73/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2020/TLST-HS ngày 09/3/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2020/QĐXXST-HS ngày 16/4/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T; Sinh năm: 1989; Giới tính; Nam; HKTT: Đội 7, thôn Phù Lưu Hạ, xã Phù Lưu, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn VD (Đã chết); Con bà: Nguyễn Thị M; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 10/7/2011 Công an phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn T về hành vi: “Trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác”. Hình thức phạt tiền: 1.500.000 đồng (Bằng chữ: Một triệu năm trăm nghìn đồng).

Danh bản số 07 lập ngày 26/11/2019, tại Công an quận Nam Từ Liêm;

Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/11/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 50 phút ngày 24/11/2019, tổ công tác Y2/141, Công an thành phố Hà Nội đang làm nhiệm vụ tại khu vực ngã tư Tố Hữu – Lương Thế Vinh, thuộc phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, phát hiện Nguyễn Văn T có biểu hiện nghi vấn. Tiến hành kiểm tra phát hiện tại túi quần bên phải của T đang mặc có 01 túi nilông kích thước 02cm x 01cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma tuý. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật và dẫn giải T cùng vật chứng đến bàn giao Công an quận Nam Từ Liêm để điều tra làm rõ.

Vt chứng thu giữ của Nguyễn Văn T: 01 túi nilông kích thước khoảng 02cm x 01cm chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A71, gắn sim số thuê bao 0345672523 và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, BKS: 34N4-3777, số máy: 5763671, số khung: 763643.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 12 giờ ngày 24/11/2019, T gọi điện cho một người bạn tên Hòa (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua 300.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng) ma túy tổng hợp dạng “đá”. Hòa đồng ý và hẹn gặp T ở khu vực Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Sau đó, T một mình điều khiển xe máy Honda Wave màu trắng, BKS: 34N4 - 3777 đến ngõ 207 đường Xuân Đỉnh gặp Hòa và đưa cho Hòa 300.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng) để mua ma túy. Hòa nhận tiền và đi khoảng 30 phút thì quay lại đưa cho T 01 túi nilông màu trắng bên trong chứa ma túy “đá”. T cất túi ma túy vào túi quần phía trước bên phải rồi điều khiển xe máy đi đến khu vực ngã tư Tố Hữu - Lương Thế Vinh, thuộc phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội để tìm chỗ sử dụng, thì bị tổ công tác Y2/141, Công an thành phố Hà Nội kiểm tra, bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại cơ quan điều tra, T đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Kết luận giám định số: 7504/KLGĐ-PC09 ngày 03/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội, kết luận : “Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,169 gam./.”.

Đi với người tên Hòa bán ma túy cho T (như T khai) quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm không có căn cứ để điều tra và xử lý.

Đi với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, BKS: 34N4- 3777, số máy: 5763671, số khung: 763643, thu giữ của T khi bắt quả tang, quá trình điều tra, xác định: Chiếc xe, đăng ký mang tên Nông Văn T (Sinh năm:

1990; HKTT: Thôn Pa Ràng, xã Hòa Bình, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn). Anh T khai: Năm 2015 , anh T mua mới và đăng ký chính chủ xe máy Honda Wave, màu trắng, BKS: 12X1-09448, có số khung, số máy như trên. Năm 2017, anh T bị mất đăng ký xe và đã xin cấp lại đăng ký. Năm 2017 anh T đi làm công nhân ở Bắc Ninh và quen với Vũ Chiến Thắng (không rõ nhân thân lai lịch) thuê trọ tại phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Chiến mượn anh T chiếc xe trên nhưng không trả xe, anh T đã đến công an phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh trình báo.

Đi với biển kiểm soát 34N4-3777, qua tra cứu người đăng ký mang tên Nguyễn TT (Sinh năm: 1980; HKTT: Tập thể đường sắt, phường Nguyễn Trãi, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương). Anh Tuấn khai: Năm 2008 anh Tuấn mua mới và đăng ký chính chủ 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream, có biển kiểm soát: 34N4-3777, số máy: 1030426, số khung 027588. Đến năm 2010 do không có nhu cầu sử dụng nên đã bán lại xe cho người khác, không nhớ là ai. Do đó, ngày 17/02/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận Nam Từ Liêm đã ra Quyết định tách vụ án hình sự số: 06, về việc: Tách rút tài liệu liên quan đến chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, BKS: 34N4-3777, số máy 5763671, số khung: 763643, để tiếp tục điều tra xử lý sau. Bản Cáo trạng số: 64/CT-VKSNTL ngày 05/3/2020 của Viện kiểm sát nhân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều luật quy định:

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Tại phiên tòa:

Bị cáo T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xác nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố đối với bị cáo về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và kết luận giữ quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội lần đầu, không có tiền án, tiền sự, tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Không; Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mép dán có chữ ký của Nguyễn Văn T, cán bộ Công an phường Trung Văn và giám định viên, là vật cấm tàng trữ; Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước:

01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A71, bên trong lắp sim: 0345672523, là phương tiện phạm tội của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ 50 phút, ngày 24/11/2019, tại khu vực ngã tư Tố Hữu - Lương Thế Vinh, thuộc phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,169 gam ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng, thì bị tổ công tác Y2/141, Công an thành phố Hà Nội kiểm tra phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi nêu trên của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã truy tố đối với bị cáo về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp với pháp luật.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm những quy định của Nhà Nước về chế độ quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý cất giấu ma túy để sử dụng. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân, bị cáo 01 lần bị xử phạt vi phạm hành chính năm 2011, bị cáo không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu,tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, được thể hiện ở mục đích phạm tội, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ 0,169gam Methamphetamine, căn cứ vào nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo T từ 15 tháng đến 18 tháng tù, là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội bị cáo gây ra.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Không.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mép dán có chữ ký của Nguyễn Văn T, cán bộ Công an phường Trung Văn và giám định viên, là vật cấm tàng trữ; Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A71, bên trong lắp sim: 0345672523, là phương tiện phạm tội của bị cáo, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[10] Về án phí: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s Khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/11/2019.

Căn cứ Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mép dán có chữ ký của Nguyễn Văn T, cán bộ Công an phường Trung Văn và giám định viên; Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A71, bên trong lắp sim: 0345672523 (Theo biên bản giao, nhận vật chứng số: 106, ngày 09/3/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội).

n cứ vào Khoản 2 Điều 136, Khoản 1 Điều 331, Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Về án phí: Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 73/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:73/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;