Bản án 73/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 73/2020/HS-ST NGÀY 14/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 88/2020/HSST, ngày 24 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2020/HS-QĐ ngày 27/4/2020, đối với bị cáo:

1. Họ và tên: P V D -Sinh năm 1995; Giới tính: Nam; NKTT: Xóm 5 xã L, TP. P, tỉnh H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Bố: P V Q, sinh năm 1971; Mẹ: L T T, sinh năm 1974; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Theo danh chỉ bản số 78 ngày 02 tháng 01 năm 2020 được lập tại Công an quận Bắc Từ Liêm thì bị cáo chưa có Tiền án, Tiền sự. Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2019 đến ngày 21/01/2020 hủy bỏ tạm giam, áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: T T T H -Sinh năm 1990; Giới tính: Nữ; NKTT: Tổ dân phố X, phường X, quận B, TP. H Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố:T V V, sinh năm 1962; Mẹ: P T H –Sinh năm 1958; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai. Chồng: P V K (Đã ly hôn). Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2017. Theo danh chỉ bản số 77 ngày 02 tháng 01 năm 2020 được lập tại Công an quận Bắc Từ Liêm thì bị cáo chưa có Tiền án, Tiền sự. Bị cáo bị bắt theo Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 24/12/2019 đến ngày 02/01/2020 hủy bỏ tạm giữ. Hiện đang áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị N H T, sinh năm 1987. HKTT: 41F2 tập thể Trần Hưng Đạo, phường Đ, quận H, TP. H Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh H M Đ, sinh năm 2003. Địa chỉ: Thôn R, Đ, huyện T, tỉnh P.Vắng mặt tại phiên tòa.

3. Chị P M U, sinh năm 1998. HKTT: G, huyện G, tỉnh N. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 01h40’ ngày 24/12/2019, tổ công tác Công an phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, TP H Nội làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát, khi đến trước cửa nH nghỉ Cảm Xúc 2 ở ngõ 180 đường Hoàng Quốc Việt, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, TP H Nội thì phát hiện P V D đang bán trái phép ma túy cho N H T, đối tượng L Q T (SN: 1994, HKTT: Tổ 1, phường T, TP P, tỉnh H) đang đứng gần đó chờ P V D. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa các đối tượng về trụ sở để làm rõ.

Quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bắc Từ Liêm xác định việc D bán ma túy có T T T H là đồng phạm nên đã bắt theo Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với H.

Vật chứng thu giữ của P V D:

- 01 túi nilong màu trắng kích thước 2x2 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng trong;

- 1.400.000 đồng;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng, số sim 0981428765 đã qua sử dụng.

Vật chứng thu giữ của N H T: 01 điện thoại Nokia màu xanh xám đã qua sử dụng, lắp sim 0374213550 Vật chứng thu giữ của L Q T: 01 xe máy Liberty đã qua sử dụng, màu đen, BKS 15M1-009.45 Vật chứng thu giữ của T T T H 01 điện thoại Nokia màu xanh xám, số điện thoại 0966509572 đã qua sử dụng Vật chứng thu giữ của H M Đ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu đen, lắp sim số 0867065436 đã qua sử dụng.

Ngày 25/12/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bắc Từ Liêm tiến Hnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của P V D. Kết quả: không phát hiện và thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Ngày 25/12/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bắc Từ Liêm, TP H Nội ra Quyết định trưng cầu giám định số 53/CQĐT(ĐTMT) trưng cầu giám định tinh thể đã thu giữ.

Tại Kết luận giám định số 8525/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP H Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,752 gam.

Quá trình điều tra xác định:

Khoảng 16h00’ ngày 22/12/2019 P V D đến khu vực ngã tư Cổ Nhuế mua của một nam thanh niên tên “Tùng” (không xác định nhân thân, lai lịch) 03 viên ma túy tổng hợp dạng viên nén với giá 1.200.000 đồng rồi mang về phòng trọ ở số 350 đường Bưởi, phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, TP H Nội cất giấu. Đến ngày 23/12/2019, D tiếp tục gặp “Tùng” mua 01 chỉ ma túy Ketamine với giá 4.000.000 đồng. Khoảng 16 giờ cùng ngày, D rủ L Q T và P M U (SN: 1998, HKTT: Gia V, N, ) đến phòng trọ của D chơi và ba người cùng nhau sử dụng hết 3 viên ma túy tổng hợp và khoảng nửa chỉ ketamine mà D đã mua.

Khoảng 01h14 ngày 24/12/2019, T T T H đang bán Hng ăn đêm thì N H T sử dụng số điện thoại 0374213550 gọi đến số 0966509572 của T T T H hỏi mua nửa chỉ ma túy ketamine để sử dụng. H báo giá là 2.000.000 đồng nhưng do đã muộn nên phải thêm 200.000 đồng tiền công vận chuyển, tổng là 2.200.000 đồng, Trang đồng ý. Sau khi thỏa thuận xong, H mượn điện thoại Iphone 5 lắp sim số 0867065436 của anh H M Đ (SN: 2003, HKTT: thôn Ruộng Mơ, Định Quảng, Thanh Sơn, Phú Thọ; là nhân viên trong quán của H) gọi điện đến số 0981.428.765 của P V D và nói: có còn ma túy không, có khách hỏi mua nửa chỉ ke. D bảo: còn nửa chỉ Ketamine nên đồng ý bán. H nhắn tin số điện thoại của Trang cho D để hai người tự liên hệ giao dịch ma túy. D và Trang liên lạc với nhau và thống nhất giao ma túy tại nH nghỉ Cảm Xúc 2 ở ngõ 180 Hoàng Quốc Việt, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, TP H Nội. Sau đó, D lấy gói ma túy giấu vào trong túi quần bên phải đang mặc và dắt xe máy ra khỏi nH thì Tuấn xin đi theo D. D điều khiển xe máy nhãn hiệu Liberty biển kiểm soát 15M1-009.45 chở Tuấn đi đến điểm hẹn. Khi đến ngõ 180 Hoàng Quốc Việt thì D dừng xe và bảo Tuấn ở ngoài đợi, còn D đi vào trước nH nghỉ Cảm Xúc 2 để gặp Trang, Trang đưa cho D số tiền 1.400.000 đồng, D chưa kịp giao ma túy cho Trang thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ cùng vật chứng.

Đối với nam thanh niên bán ma túy tên “Tùng”: D khai không biết nhân thân, lai lịch của Tùng, chỉ biết số điện thoại của Tùng là 0987535273. Qua xác minh thuê bao trên chưa đăng ký thông tin. Tiến Hnh rà soát tại khu vực D mua ma túy nhưng không xác định được “Tùng” như lời khai của D.

Đối với N H T: Trang khai định mua ma túy về sử dụng nhưng chưa mua được. Kết quả thử ma túy xác định Trang không sử dụng chất ma túy nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm không có căn cứ để xử lý đối với Trang.

Đối với Lâm Quốc Tuấn, P M U: Tuấn và Uyên không biết việc D đi bán ma túy cho Trang. Hai người sử dụng ma túy cùng với D vào ngày 23/12/2019. Kết quả thử ma túy xác định Tuấn và Uyên có sử dụng chất ma túy. Do vậy, Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định xử phạt Hnh chính về Hnh vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với Tuấn và Uyên bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/NĐ-CP của Chính phủ.

Đối với H M Đ: cho H mượn điện thoại Iphone 5 lắp sim số 0867065436 nhưng không biết H gọi cho ai, mục đích làm gì nên cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Bắc Từ Liêm không xử lý.

Đối với xe máy Liberty biển kiểm soát 15M1-009.45 thu giữ của Lâm Quốc Tuấn:

- Tại kết luận giám định số 161A/KL-PC09-Đ3 ngày 04/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP H Nội xác định: Xe máy Piagio Liberty đeo biển kiểm soát 15M1-009.45 hiện tại có số khung RP8M73100CV033153 là số nguyên thủy và số máy bị tẩy xóa, đóng lại. Xác định số máy nguyên thủy của xe là:M731M 4!33288 (ký tự ! không xác định được). Tra cứu theo số khung trên không tìm thấy thông tin dữ liệu.

- Tra cứu theo biển kiểm soát 15M1-009.45 xác định là đăng ký cho xe Yamaha Jupiter, người đăng ký xe là chị Nguyễn Cẩm Nhung (Sinh năm 1993, HKTT: Phạm Văn Đồng, quận D Kinh, TP Hải Phòng). Chị Nhung khai: năm 2014 chị Nhung có đăng ký chiếc xe Jupiter trên nhưng đến năm 2019 thì đã bị trộm cắp, chị Nhung đã trình báo đến Công an địa phương, chị Nhung không có đề nghị gì với cơ quan Công an liên quan đến chiếc xe đã thu giữ.

- Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là do P V D mượn của P M U, Uyên không biết việc D sử dụng chiếc xe để đi bán ma túy. Uyên khai chiếc xe trên là do Uyên mua của một người không xác định lai lịch ở khu vực chợ Sắt - TP Hải Phòng vào năm 2016, hiện đã bị mất giấy tờ mua bán cũng như đăng ký xe. Nay chị Uyên không có yêu cầu, đề nghị gì đối với chiếc xe.

Đối với 04 chiếc điện thoại di động các đối tượng sử dụng để liên lạc với nhau mua bán ma túy, số tiền 1.400.000 đồng cùng xe máy Liberty, một biển kiểm soát 15M1-009.45 cần tiếp tục tạm giữ, chuyển theo hồ sơ vụ án để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo P V D, T T T H đã khai nhận Hnh vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng số 88/CT-VKS, ngày 16/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo P V D và T T T H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự Căn cứ tính chất Hnh vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251, Điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo P V D mức án từ 28 đến 32 tháng tù; Xử phạt bị cáo T T T H mức án 24 đến 28 tháng tù;

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong trên trong chứa ma túy Ketamine đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của P V D và giám định viên Nguyễn Văn H và 01 Biểm kiểm soát: 15M1-009.45.

Tịch thu sung công quỹ NH nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng, số sim 0981428765 đã qua sử dụng; 01 điện thoại Nokia màu xanh xám đã qua sử dụng, lắp sim 0374213550; 01 xe máy Liberty đã qua sử dụng màu đen số khung: RP8M73100CV033153; Số máy bị tẩy xóa, đóng lại, xác định số nguyên thủy là: M731M4!33288 (ký tự ! không xác định được); tra cứu theo số khung trên không tìm thấy thông tin dữ liệu; 01 điện thoại Nokia màu xanh xám, số điện thoại 0966509572 đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu đen, lắp sim số 0867065436 đã qua sử dụng, số tiền 1.400.000đồng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời khai của bị cáo và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các Hnh vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, TP. H Nội; Kiểm sát viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP. H Nội trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về Hnh vi, quyết định của Cơ quan tiến Hnh tố tụng, Người tiến Hnh tố tụng. Do đó, các Hnh vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến Hnh tố tụng, Người tiến Hnh tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với các quy định của pháp luật.

[2] Về Hnh vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và vật chứng được thu giữ cùng các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Qua giới thiệu của bị cáo T T T H nên khoảng 1h14’ ngày 24/12/2019, tại trước cửa nH nghỉ Cảm Xúc 2, ngõ 180 đường Hoàng Quốc Việt, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, TP H Nội bị cáo P V D có Hnh vi bán trái phép 0,752 gam ma túy Ketamine cho N H T thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Hnh vi của bị cáo P V D, T T T H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Xét tính chất Hnh vi phạm tội: Hnh vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý nH nước về các chất ma túy; xâm phạm trật tự, an toàn xã hội; xâm phạm sức khoẻ của con người; Hnh vi của bị cáo còn là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác và là nguyên nhân lây lan dịch bệnh HIV/AIDS cho xã hội. Các bị cáo đều là thanh niên có sức khỏe, nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng lười lao động, hám lợi nên đã bán trái phép chất ma túy nhằm thu lời bất chính. Vì vậy cần phải ra một bản án phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Để cá thể hóa hình phạt đối với từng bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Các bị cáo P V D và T T T H phạm tội có “đồng phạm”. Bị cáo H có vai trò giới thiệu, giúp sức bị cáo D bán ma túy cho N H T. Bị cáo D trực tiếp bán ma túy cho Trang và là người trực tiếp hưởng lợi từ việc bán ma túy. Đối với bị cáo H giới thiệu cho D bán ma túy nhưng không nhằm mục đích lợi nhuận do đó mức hình phạt của bị cáo D phải cao hơn so với bị cáo H.

[4]Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Các Bị cáo T T T H, P V D không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

- Các Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là khai báo tHnh khẩn, ăn năn hối cải, lần đầu bị đưa ra xét xử.

- Bị cáo H có cha đẻ là ông Trần Viết Vinh được tặng thưởng Huy chương quân kỳ quyết thắng, Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng ba; Huy chương chiễn sỹ vẻ vang hạng nhì; Chiến sỹ thi đua...

- Bị cáo D có ông nội là Phạm Văn Thung được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3.

Về hình phạt bổ sung là hình phạt tiền: Xét các bị cáo không có tài sản, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với đối tượng “Tùng” bán ma túy cho D, Cơ quan điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của “Tùng” nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với N H T: Trang khai định mua ma túy về sử dụng nhưng chưa mua được. Kết quả thử ma túy xác định Trang không sử dụng chất ma túy nên Hội đồng xét xử không xử lý đối với Trang.

Đối với Lâm Quốc Tuấn, P M U không biết việc D đi bán ma túy cho Trang và đã bị Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định xử phạt Hnh chính về Hnh vi sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/NĐ-CP của Chính phủ nên Hội đồng xét xử không xử lý đối với Tuấn và Uyên.

Đối với H M Đ: cho H mượn điện thoại Iphone 5 lắp sim số 0867065436 nhưng không biết H gọi cho ai, mục đích làm gì nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét, xử lý.

[5] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 (một) phong bì niêm phong trên trong chứa ma túy Ketamine đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của P V D và giám định viên Nguyễn Văn H và Biển kiểm soát 15M1-009.45 là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng, số sim 0981428765 đã qua sử dụng; 01 điện thoại Nokia màu xanh xám đã qua sử dụng, lắp sim 0374213550; 01 xe máy Liberty đã qua sử dụng, màu đen số khung: RP8M73100CV03315; Số máy của xe bị tẩy xóa, đóng lại, xác định số nguyên thủy là: M731M4!33288 (ký tự ! không xác định được); tra cứu theo số khung trên không tìm thấy thông tin dữ liệu; 01 điện thoại Nokia màu xanh xám, số điện thoại 0966509572 đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu đen, lắp sim số 0867065436 đã qua sử dụng, số tiền 1.400.000đông các đối tượng sử dụng vào việc mua bán trái phép ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ NH nước;

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo T T T H, P V D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Áp dụng Điều 106, Điều 135, Điều 136 Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Áp dụng Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban Hnh kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

1. Xử phạt bị cáo P V D 28 (hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi Hnh án, được trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2019 đến ngày 21/01/2020.

Xử phạt bị cáo T T T H 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi Hnh án, được trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2019 đến ngày 02/01/2020.

2. Vật chứng của vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong trên trong chứa ma túy Ketamine đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của P V D và giám định viên Nguyễn Văn H; 01 (một) BKS 15M1-009.45.

- Tịch thu sung công quỹ NH nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng, số sim 0981428765 đã qua sử dụng; 01 điện thoại Nokia màu xanh xám đã qua sử dụng, lắp sim 0374213550; 01 xe máy Liberty đã qua sử dụng, màu đen số khung: RP8M73100CV03315; Số máy của xe bị tẩy xóa, đóng lại, xác định số nguyên thủy là: M731M4!33288 (ký tự ! không xác định được); 01 điện thoại Nokia màu xanh xám, số điện thoại 0966509572 đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu đen, lắp sim số 0867065436 đã qua sử dụng, số tiền 1.400.000 đồng;

(Vật chứng trên được xử lý theo biên bản giao, nhận vật chứng số 139/20, ngày20 tháng 4 năm 2020 của Cơ quan CSĐT công an quận Bắc Từ Liêm với Chi cục thi Hnh án dân sự quận Bắc Từ Liêm).

3. Án phí: Các Bị cáo P V D, T T T H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần liên quan của Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 73/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:73/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;