Bản án 73/2020/HNGĐ-ST ngày 06/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 73/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 06 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 148/2020/TLST-HNGĐ ngày 03-3-2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Y, sinh năm 1990; thường trú: Thôn 2, xã M, huyện Đ, tỉnh L; địa chỉ liên hệ: D57, Đường N4, khu phố 1, phường B, thành phố B, tỉnh Đ. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Văn Ph, sinh năm 1990; thường trú: Số 8, Đường số 6, KDC A, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình D. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14-02-2020 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Đỗ Thị Y trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Y và anh Ph tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2013. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 01/2014, quyển số 08/2013, ngày 02/01/2014. Chị Y xác định quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian thì Ph sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống, không có tiếng nói chung, không có sự đồng cảm và chia sẻ lẫn nhau. Chị Y đã cố gắng hàn gắn tình cảm nhiều lần nhưng không có kết quả. Từ cuối năm 2014, chị Y chuyển về sống cùng gia đình tại Thôn 2, xã M, huyện Đ, tỉnh L, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Nay chị Y xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh Trần Văn Ph.

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con chung tên Trần Tiến Đ, sinh ngày 08/02/2014. Sau khi ly hôn chị Y yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh Ph thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Trần Văn Ph đã được Tòa án thông báo tham gia tố tụng, thông báo yêu cầu cung cấp chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng anh không đến Tòa án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa Ph biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên căn cứ vào các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Trần Văn Ph hiện đang sinh sống và thường trú tại khu phố B, Phường A, thành phố D, tỉnh B nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 17/7/2020 và ngày 06/8/2020 nhưng đều vắng mặt không lý do. Căn cứ các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Chị Y và anh Ph tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường A, thành phố D, tỉnh B và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 01/2014, quyển số 08/2013, ngày 02/01/2014 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Chị Y xác định quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến cuối năm 2014 thì Ph sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống, không có tiếng nói chung, không có sự đồng cảm và chia sẻ lẫn nhau. Từ cuối năm 2014, chị Y chuyển về sống cùng gia đình tại Th, xã M, huyện Đ, tỉnh L. Vợ chồng đã sống ly thân trong một thời gian dài không thể hàn gắn được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Ph.

[2.3] Qúa trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh, trước khi Tòa án thụ lý vụ án chị Y và anh Ph không ai có đơn đề nghị hòa giải tại cơ sở, phù hợp với lời khai của nguyên đơn.

[2.4] Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc; để đạt được mục đích đó vợ chồng cần phải thương yêu, tin tưởng, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau Ph triển về mọi mặt, xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc. Chị Y xác định quan hệ hôn nhân của vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, Ph sinh trong thời gian dài không hàn gắn được. Anh Ph đã được Tòa án triệu tập làm việc và tham gia hòa giải nhưng đều vắng mặt, không cung cấp lời khai, không cung cấp tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Như vậy chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị Y và anh Ph đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị Y yêu cầu được ly hôn với anh Ph là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con chung tên Trần Tiến Đ, sinh ngày 08/02/2014. Sau khi ly hôn chị Y yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con. Khi Tòa án giải quyết việc ly hôn cần xem xét đến sự Ph triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho ba hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu Đạt từ trước đến nay sống cùng mẹ được đi học và Ph triển tốt. Chị Y có việc làm, có thu nhập ổn định mỗi tháng hơn 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng, có thời gian đảm bảo tốt cho việc chăm sóc và nuôi dưỡng con. Anh Ph được Tòa án triệu tập làm việc nhiều lần nhưng đều vắng mặt, không có ý kiến về con chung, không cung cấp chứng cứ chứng minh anh có việc làm và thu nhập. Vì vậy, chị Y yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là có căn cứ, phù hợp với các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị Y không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con, xét đây là ý chí tự nguyện của chị nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Y không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đỗ Thị Y phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 và các Điều 227, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Y đối với anh Trần Văn Ph về việc ly hôn, nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị Y được ly hôn với anh Trần Văn Ph. (Giấy chứng nhận kết hôn số 01/2014, quyển số 08/2013 do Ủy ban nhân dân Phường A, thành phố D, tỉnh B cấp ngày 02/01/2014).

- Về con chung: Giao con chung tên Trần Tiến Đ, sinh ngày 08/02/2014 cho chị Đỗ Thị Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Đỗ Thị Y không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

Sau ly hôn, chị Y và anh Ph đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh Ph lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị Y nuôi con thì chị có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Đỗ Thị Y không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đỗ Thị Y phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0040147, ngày 03/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 73/2020/HNGĐ-ST ngày 06/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:73/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;