Bản án 73/2019/HS-PT ngày 05/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 73/2019/HS-PT NGÀY 05/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 54/2019/TLPT-HS ngày 11 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo Phan Thanh V do có kháng cáo của bị cáo Phan Thanh V đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2019/HS-ST ngày 10 tháng 5 năm 2019 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

Bị cáo có kháng cáo:Phan Thanh V, sinh ngày 17 tháng 02 năm 1979 tại xã P, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Đăng ký hộ khẩu thường trú và chổ ở: Thôn Q, xã P, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn T và bà Hồ Thị S; chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 113/2014/HSST ngày 20 tháng 5 năm 2014 của Tòa án nhân dân quận Cầu giấy, thành phố Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành án tại Trại giam Thanh Phong, Tổng cục VIII Bộ Công an, ra Trại ngày 20 tháng 12 năm 2015; Quyết định số 24/QĐ-XPVPHC, ngày 18 tháng 6 năm 2018 của Công an phường Đồng Phú, thành phố Đồng Hới xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; bị bắt tạm giam ngày 07 tháng 01 năm 2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đồng Hới, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 20 tháng 12 năm 2018, Phan Thanh V đi xe khách từ nhà ở xã Phú Trạch, huyện Bố Trạch đến xã Lộc Ninh, thành phố Đồng Hới tìm người hỏi mua ma túy để sử dụng. Khi đến khu vực chợ Lộc Đại, Vân gặp một nam thanh niên tên “U” (không rõ địa chỉ cụ thể) hỏi mua má túy, U quay lại đưa cho V 01 gói nilon bên trong chứa 46 viên nén hình tròn màu hồng, Phan Thanh V cất gói nilon đó vào trong bao thuốc lá Hồng Hà cầm trên tay phải đi bộ tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 19 giờ 40 phút cùng ngày khi V đang đi bộ trên đoạn đường Nam Cao thuộc thôn 1 xã L, thành phố Đ thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đ phối hợp với Công an xã L kiểm tra hành chính phát hiện, thu giữ trên người Phan Thanh V 01 gói nilon bên trong chứa 46 viên nén hình tròn màu hồng, Phan Thanh V khai nhận đó là ma túy tổng hợp loại hồng phiến, mục đích cất giấu để sử dụng.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ được các vật chứng gồm: 01 túi nilon bên trong chứa 46 viên nén hình tròn màu hồng và 01 chứng minh nhân dân số 194169493 mang tên Phan Thanh V, do Công an tỉnh Quảng Bình cấp ngày 09 tháng 01 năm 2016.

Tại bản Kết luận giám định số 103/GĐ-PC09 ngày 01/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 46 viên nén hình tròn màu hồng gói trong 01 túi nilon thu giữ từ Phan Thanh V (Mẫu ký hiệu A) gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 4,296g (bốn phẩy hai trăm chín mươi sáu gam).

Cáo trạng số 19/CT-VKSĐH-MT ngày 29 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới truy tố Phan Thanh V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bản án sơ thẩm số 30/2019/HS-ST ngày 10 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đ quyết định tuyên bố bị cáo Phan Thanh V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt Phan Thanh V 42 (bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 07 tháng 01 năm 2019.

Bản án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng vụ án, tuyên buộc bị cáo Phan Thanh V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm đê sung vào ngân sách Nhà nước; tuyên quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm đối với bị cáo.

Trong hạn luật định, ngày 15 tháng 5 năm 2019, bị cáo Phan Thanh V kháng cáo cho rằng bị cáo có cả bố và mẹ là người có công với Cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương, hiện đang hưởng chế độ hưu trí, xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 25 tháng 9 năm 2019, gia đình bị cáo nộp Tờ trình xin giảm án cho Phan Thanh V kèm các bản sao Huân chương Kháng chiến hạng Nhì của ông Phan Văn T và Huân chương Kháng chiến hạng Ba của bà Hồ Thị S là bố và mẹ của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phan Thanh V khai và thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như Cáo trạng truy tố và xét xử của Bản án sơ thẩm, giữ nguyên kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố xét xử phúc thẩm vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Thanh V theotình tiết giảm nhẹ mới bị cáo có bố và mẹ là người có công để áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa Bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo từ 01 đến 02 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Theo lời khai nhận tội của bị cáo Phan Thanh V tại phiên toà phúc thẩmphù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật vụ án bị thu giữ, Kết luận giám định loại ma tuý, khối lượng chất ma tuý, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, Hội đồng xét xử thấy hành vi phạm tội của bị cáo Phan Thanh V có đủ yếu tố cấu thành của tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015). Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2019/HS-ST ngày 10 tháng 5 năm 2019 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới quyết định tuyên bố bị cáo Phan Thanh V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[1]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phan Thanh V, Hội đồng xét xử thấy, bị cáo nhận thức và biết được tác hại của việc sử dụng trái phép chất ma tuý, biết được việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải chịu hình phạt rất nghiêm khắc nhưng bị cáo vẫn thực hiện. Trong vụ án này bị cáo Phan Thanh V bị truy tố và xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, “Tàng trữ trái phép chất ma tuý là Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam, có hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Theo khối lượng 4,296 gam chất ma tuý là Methamphetamine mà bị cáo Phan Thanh V đã tàng trữ trái phép, tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo Phan Thanh V mức án mức án 42 tháng tù là thoả đáng.

Theotình tiết giảm nhẹ ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo có cả bố và mẹ là người có công với Cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo để áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ của khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa Bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo.

[2]. Về án phí hình sự phúc thẩm đối với bị cáo Phan Thanh V.

Bị cáo Phan Thanh V kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu Án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng vụ án; tuyên buộc bị cáo Phan Thanh V phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước, không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357; khoản 2 các Điều 135,136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Thanh V để sửa Bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Phan Thanh V. Xử phạt bị cáo Phan Thanh V 39 (ba mươi chín) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 07 tháng 01 năm 2019.

2. Bị cáo Phan Thanh V không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng vụ án; tuyên buộc bị cáo Phan Thanh V phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (05 tháng 8 năm 2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 73/2019/HS-PT ngày 05/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:73/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;