Bản án 73/2017/HS-ST ngày 20/12/2017 về tội môi giới mại dâm

TOÀ ÁN NHÂNDÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 73/2017/HS-ST NGÀY 20/12/2017 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 20 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam sách tỉnh Hải Dương, xét xử công khai sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 75/2017/HS-ST ngày 30/11/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị H, sinh năm 1973;

ĐKHKTT: Khu L, thị trấn N, huyện N, tỉnh Hải Dương.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn L (đã chết) (ông L được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba) và con bà Đỗ Thị T (đã chết); chồng là Đỗ Thế H, sinh năm 1973; có 02 con lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2001.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ ngày 28/9/2017 đến ngày 29/9/2017 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương; (có mặt).

- Người làm chứng:

1 - Chị Đinh Thùy H1, sinh năm 1987; Địa chỉ: Xã B, huyện C, tỉnh Hòa Bình;

2 -  Chị Phạm Thị N, sinh năm 1978;

Địa chỉ: Khu L, thị trấn N, huyện N, tỉnh Hải Dương.

3 - Anh Mạc Văn K (tên gọi khác là Mạc Đức K), sinh năm 1984; Trú tại: Thôn A, xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương.

4 - Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1986;

5 - Ông Lưu Tòa Đ, sinh năm 1950;

6 - Anh Đồng Văn H, sinh năm 1972;

7 - Chị: Vũ Thị T, sinh năm 1977;

Đều Địa chỉ: Phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

(Những người làm chứng đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do Nguyễn Thị H, Đinh Thùy H1 và Phạm Thị T đều trọ cùng nhau ở khu L, thị trấn N, huyện N, tỉnh Hải Dương. H  đặt vấn đề với H1 và T nếu có khách mua dâm thì H sẽ gọi cho H1 và T đi bán dâm cho khách, H sẽ đứng ra thu 300.000 đồng/01 lượt quan hệ tình dục, số tiền này H được hưởng 100.000 đồng, H1, T được hưởng 200.000 đồng. H1 và T đồng ý. Khoảng 08 giờ ngày 28/9/2017, Mạc Văn K (tên gọi khác là Mạc Đức K) và Nguyễn Văn Q có nhu cầu mua dâm. K dùng điện thoại có số thuê bao 01666327814 gọi vào số thuê bao 0902.003.921 của H đặt vấn đề mua dâm đối với 02 gái bán dâm. H nói với K chỉ có một người và để H tìm thêm người nữa. Sau đó H dùng điện thoại số thuê bao 0902003921 gọi vào số thuê bao 0121.336.8794 của H1, bảo H1 đi bán dâm, H1 đồng ý. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, khi K điện cho H thì H bảo K đến nhà nghỉ Phương Thao ở thôn Hảo Thôn, xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đợi. K lấy 300.000 đồng đưa cho Q rồi cùng Q đến nhà nghỉ Phương Thao. H gọi điện cho H1, bảo H1 đến nhà nghỉ Phương Thao đặt trước một phòng nghỉ để chờ khách đến bán dâm. H1 đến nhà nghỉ Phương Thao gặp anh Đồng Văn H  là quản lý nhà nghỉ và thuê phòng 204. H cũng đi nhờ xe của chị Nguyễn Thị T đến nhà nghỉ Phương Thao gặp K và Q nói tiền mua dâm hai người hết 600.000 đồng. Q đưa cho H 600.000 đồng. H bảo Q vào phòng 204 để quan hệ tình dục với H1 và nhờ H1 gọi điện cho T bảo T đến nhà nghỉ Phương Thao. H dùng điện thoại của mình gọi vào số thuê bao của 0975147704 của T và bảo T đến nhà nghỉ Phương Thao để gặp H. H thuê phòng 202 và bảo K đợi. Khi T đến nhà nghỉ Phương Thao thì H bảo T bán dâm cho K ở phòng 202, T đồng ý. Đến khoảng 14 giờ 45 phút cùng ngày khi Q1 và H1 đang quan hệ tình dục còn T và K đang chuẩn bị quan hệ tình dục thì bị Công an huyện Nam Sách lập biên bản vi phạm hành chính và thu giữ tại phòng 204 gồm: 01 vỏ bao cao su và 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh đen, gắn sim số 01213.368.794 của H1 và thu giữ tại phòng 202 gồm 01 điện thoại Nokia 1650 có gắn sim số 01666.327.814 của K; 01 điện thoại nhãn hiệu Hotway màu nâu có gắn sim số 0975.147.704 của T. Cùng ngày Công an huyện Nam Sách đã ra Lệnh bắt khẩn cấp đối với Nguyễn Thị H cùng tang vật là số tiền 610.000 đồng (trong đó có 600.000 đồng Q trả tiền mua dâm và 10.000đ của H), 01 điện thoại Nokia 105 màu đe có gắn sim số 0902.003.921 của H.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận, ngày 28/9/2017 có hành vi môi giới để H1 và T bán dâm cho K và Q nhằm thu lời bất chính và quá trình phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng của VKS nhân dân huyện Nam Sách đã nêu.

Bản cáo trạng số 75/VKS-HS ngày 27 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố bị cáo: Nguyễn Thị H về tội "Môi giới mại dâm" theo điểm e khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo và đề nghị HĐXX áp dụng điểm e khoản 2 Điều 255; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 41 BLHS, Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, khoản 3 Điều 7 BLHS 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 76; Điều 99 BLTTHS; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án; xử phạt bị cáo từ 39 tháng đến 42 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền với bị cáo; vật chứng: Tịch thu sung quỹ số tiền 600.000đ, tịch thu cho phát mại sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhã hiệu Masstel màu xanh đen gắn sim số 01213.368.794 của H1; 01 điện thoại Nokia 1650 có gắn sim số 01666.327.814 của K; 01 điện thoại nhãn hiệu Hotway màu nâu có gắn sim số 0975.147.704 T; 01 điện thoại Nokia 105 màu đen có gắn sim số 0902.003.921 của H là phương tiện phạm tội; tịch thu tiêu hủy 02 vỏ bao cao su và 02 ruột bao cao su đã qua sử dụng. Trả lại cho H 10.000đồng là tiền hợp pháp của H .

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm

Bị cáo nói lời sau cùng, xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của những người làm chứng cũng như các biên bản vi phạm hành chính và vật chứng thu được tại hiện trường và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ, ngày 28/9/2017 tại nhà nghỉ Phương Thao ở thôn Hảo Thôn, xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Thị H đã có hành vi dẫn dắt, môi giới cho Đinh Thùy H1; Phạm Thị T bán dâm cho Mạc Văn K, Nguyễn Văn Q lấy số tiền 600.000 đồng. Khi H1 và Q đang quan hệ tình dục, T và K đang chuẩn bị quan hệ tình dục thì bị Công an huyện Nam Sách lập biên bản pháp pháp quả tang. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận biết được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, nhưng vì muốn thu lời bất chính nên cố ý phạm tội; hành vi của bị cáo dẫn dắt môi giới cho nhiều người (hai đôi nam, nữ) mua bán dâm đã vi phạm điểm e khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố H về  tội “Môi giới mại dâm" theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 255 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh xã hội, vi phạm nếp sống văn hóa. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

4]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, nên không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải; bố bị cáo là người có công với Cách mạng được Nhà nước tặng tặng thưởng Huân chương, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 BLHS. Tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự sửa đổi 2009 khung hình phạt từ 03 năm đến 10 năm. Tại khoản 2 Điều 328 BLHS 2015 có khung hình phạt từ 03 năm đến 07 năm. Vì vậy, căn cứ Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7 BLHS 2015.  HĐXX áp dụng nguyên tắc có lợi cho người phạm tội khi áp dụng hình phạt với bị cáo.

[5]. Hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 255 BLHS bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Do bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 41 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 76 BLTTHS về xử lý vật chứng: Số tiền 610.000 đồng đã thu giữ có 600.000 đồng là tiền do phạm tội mà có và 01 điện thoại di động nhã hiệu Masstel màu xanh đen, gắn sim số 01213.368.794 của H1; 01 điện thoại Nokia 1650 có gắn sim số 01666.327.814 của K; 01 điện thoại nhãn hiệu Hotway màu nâu có gắn sim số 0975.147.704 của T; 01 điện thoại Nokia 105 màu đen có gắn sim số 0902.003.921 của H là phương tiện dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung quỹ Nhà nước. 02 vỏ bao cao su và 02 ruột bao cao su đã qua sử dụng tịch thu tiêu hủy. Trả lại H 10.000đồng là tiền hợp pháp của H.

[7]. Án Phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm.

[8]. Đối với Mạc Văn K, Nguyễn Văn Quảng, Đinh Thùy H1, Phạm Thị T đã có hành vi mua, bán dâm, Công an huyện Nam Sách đã ra Quyết định xử phạt hành chính là đúng pháp luật. Ông Lưu Toàn Đ chủ nhà nghỉ Phương Thao thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hoạt động mua dâm, bán dâm ở cơ sở do mình quản lý, Công an huyện Nam Sách đã ra Quyết định xử phạt hành chính là đúng pháp luật. Anh Đồng Văn H là người được ông T thuê quản lý nhà nghỉ, anh H không biết các đối tượng thuê phòng để hoạt động mua bán mại dâm và chị Vũ Thị T là người trở H đến nhà nghỉ Phương Thao không biết H đến đấy để thực hiện hành vi môi giới mại dâm nên không đặt ra xử lý là đúng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội "Môi giới mại dâm".

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 255; Điều 33; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS. Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, khoản 3 Điều 7 BLHS 2015.

Xử phạt: Nguyễn Thị H 39 (ba mươi chín) tháng tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 28/9/2017, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 76 BLTTHS Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 600.000đ; 01 điện thoại di động nhã hiệu Masstel màu xanh đen, gắn sim số 01213.368.794 của H1; 01 điện thoại Nokia 1650 có gắn sim số 01666.327.814 của K; 01 điện thoại nhãn hiệu Hotway màu nâu có gắn sim số 0975.147.704 T; 01 điện thoại Nokia 105 màu đen có gắn sim số 0902.003.921 của H; tịch thu tiêu hủy 02 vỏ bao cao su và 02 ruột bao cao su đã qua sử dụng. Trả lại H 10.000đồng (theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Nam Sách với Chi cục THA dân sự huyện Nam Sách ngày 07/12/2017).

Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Nguyễn Thị H phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

518
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 73/2017/HS-ST ngày 20/12/2017 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:73/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;