Bản án 73/2017/HSST ngày 06/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 73/2017/HSST NGÀY 06/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 72/2017/HSST ngày 14 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn T - Tên gọi khác: Không - Giới tính: Nam

Sinh ngày 10/10/1974 tại Kiến Xương - Thái Bình. ĐKHKTT : Tổ 15, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Chỗ ở: Tổ 15, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không.

Trình độ văn hoá: 8/12; Nghề nghiệp: Không nghề nghiệp. Tiền án, tiền sự: Không

Bố đẻ: Trần Ngọc Đ, sinh năm 1937;

Mẹ đẻ: Phạm Thị T, sinh năm 1947.

Cùng nơi ĐKNKTT: Tổ 15, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai.

Vợ: Trần Thị L, sinh năm 1982 (đã ly hôn năm 2007).

Bị cáo có 01 người con, sinh năm 2000

ĐKNKTT: xã G, huyện Bảo T, tỉnh Lào Cai.

Bị cáo Trần Văn T bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/5/2017, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai (có mặt).

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Trọng Đ;

Địa chỉ: tổ 12, phường N, thành phố L, tỉnh Lào Cai( vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 45 phút ngày 30/5/2017, tổ công tác Công an phường N phối hợp với đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 12, phường N, thành phố L phát hiện bắt quả tang Trần Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tổ công tác đã mời ông Nguyễn Trọng Đ, sinh năm: 1954, trú tại: tổ 12, phường N, thành phố L, tỉnh Lào Cai là người làm chứng và tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Trần Văn T tự lấy từ trong túi quần bên trái đang mặc giao nộp 01 (một) gói nilon màu đen, bên trong là lớp giấy màu trắng chứa cục bột khô, vón cục, màu trắng. Kiểm tra túi quần bên phải Trần Văn T đang mặc tạm giữ 01 ví giả da màu nâu, bên trong có 400.000 đồng, 01 điện thoại di động Xphone màu đen đã qua sử dụng và 01 xe mô tô YAMAHA SIRIUS màu đen, BKS 24B1-90759 mang tên Trần Văn T. Tổ công tác đã thu giữ vật chứng, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng đúng quy định.

Ngày 31/5/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai ra quyết định trưng cầu giám định số 108. Trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai giám định về ma túy. Tại biên bản mở niêm phong, trích mẫu, tái niêm phong đối tượng giám định lập cùng ngày giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai xác định niêm phong còn nguyên vẹn, đúng quy định. 01 (một) túi nilon màu đen, bên trong là gói giấy chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục. Trọng lượng của số chất bột khô, màu trắng, vón cục này là 0,26 gam.Trích 0,07 gam để tiến hành giám định. Số vật chứng còn lại 0,19 gam được tái niêm phong hoàn trả cơ quan trưng cầu.

Tại kết luận giám định số 116/GĐMT ngày 01/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 0,26 (không phẩy hai mươi sáu) gam chất bột khô, màu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Heroine (Hêrôin). Heroine (Hêrôin) thuộc danh mục I, số thứ tự 20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội: Khoảng 10 giờ ngày 30/5/2017, bị cáo điều khiển xe mô tô BKS 24B1- 90759, từ nơi ở thuộc tổ 15, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai, đến khu vực cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai mua 01 gói ma túy có trọng lượng 0,26 gam Heroine (Hêrôin) với giá 200.000 đồng. Sau khi mua xong bị cáoTrần Văn T cất gói ma túy vào trong túi quần soóc bên trái đang mặc và điều khiển xe máy về khu vực tổ 12 phường N, thành phố L, để tìm nơi sử dụng, khi chưa bị cáo kịp sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật.

Bản cáo trạng số 71/KSĐT ngày 13/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo Trần Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Trần Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,26 gam Heroine (Hêrôin), mục đích để sử dụng. Lời khai của bị cáo Trần Văn T tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội tàng trừ trái phép chất ma túy. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Trần Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1; khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị Quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung “Phạt tiền” đối với bị cáo. Ngoài ra, còn đề nghị tuyên án phí hình sự sơ thẩm; xử lý vật chứng và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là sai trái, vi phạm pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên, Kiển sát viên Viện kiển sát nhân dân thành phố Lào Cai trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, biên bản niêm phong vật chứng, sơ đồ vị trí bắt quả tang, kết luận giám định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều thực hiện hợp pháp.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận ngày ngày 30/5/2017 bị cáo Trần Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,26 gam Heroine (Hêrôin), mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Bị cáo là người có sức khỏe, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Nhận thức rõ pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép chất ma túy, nhưng vì nghiện chất ma túy, bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, thiếu rèn luyện bản thân, để có ma túy sử dụng bị cáo đã coi thường pháp luật thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của nhà nước ta, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, cần có một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Cần áp dụng hình phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để có điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo. Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 194 của BLHS năm 1999 quy định: “ Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phét chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 đến 05 năm: a),…b),…c) Hê rôin, Côcain, Methamphetamin, Ampheamine, MDMA có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam. Như vậy, theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 đây là điều khoản có lợi cho bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần được xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi phạm tội trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra, Bố đẻ bị cáo là ông Trần Ngọc Đài được nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng ba. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46 của Bộ luật Hình sự mà bị cáo được hưởng. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định: “ Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, hoặc cấm làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, đang ở cùng với gia đình.Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng, xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai đã thu giữ của bị cáo Trần Văn T 01 gói nhỏ Heroine có trọng lượng là 0,26 gam Heroine ; 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA- SIRIUR, biển kiểm soát 24B1- 907.59; 01 điện thoại di động Xphone màu đen; 01 ví giả da màu nâu và 400.000đ( Bốn trăm ngàn đồng) tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Đối với số mà túy thu giữ của bị cáo Trần Văn T, cơ quan giám định đã trích mẫu 0,07 gam từ 0,26 gam Heroine để tiến hành giám định. Số vật chứng còn lại 0,19 gam được tái niêm phong hoàn lại cơ quan trưng cầu. Đây là chất ma tuý nhà nước cấm lưu hành. Vì vậy, cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với Điều 41 Bộ luật hình sự và điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA- SIRIUR, biển kiểm soát 24B1-907.59, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone màu đen, 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.

Đối với số tiền 400.000( bốn trăm ngàn đồng) VNĐ thu giữ của bị cáo Trần Văn T, đây là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Tuy nhiên, cần tiếp tục tạm giữ của bị cáo để thi hành khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm. Số tiền còn lại trả cho bị cáo.

Về án phí: Bị cáo Trần Văn T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý’’.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị Quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; Khoản 3 Điều 7; điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo 30/5/2017.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41của Bộ luật Hình sự năm 1999; Điểm a khoản 2 Điều 76 - Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,19 gam Hêrôin được tái niêm phong trong 01 bì thư, trên một mặt của bì thư có ghi: Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định trong vụ Trần Văn T có hành vi phạm tội về ma túy, phát hiện (thu giữ) ngày 30/5/2017 tại tổ 12,phường Nam Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.

 Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA- SIRIUR, biển kiểm soát 24B1- 907.59, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone màu đen, 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng.

Tiếp tục tạm giữ của bị cáo số tiền 400.000VNĐ để đảm bảo công tác thi hành án khoản tiền án phí. Số tiền còn lại trả cho bị cáo. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/5/2017)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 của Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự".

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 73/2017/HSST ngày 06/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:73/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;