TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 72/2023/HS-ST NGÀY 08/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 74/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2023/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Quốc D, sinh năm 1982; tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: 451/10/5 HBT, Phường VTS, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không ; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn P và bà Triệu Thị L; tiền án: không; tiền sự : ngày 08/12/2020 Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 309/QĐ-TA; nhân thân: Ngày 24/02/2012 Tòa án nhân dân Quận 9 xử phạt 01 năm tù về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại bản án số 09/HSST; ngày 29/11/2016 Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “ Cướp giật tài sản” tại bản án số 212/HSST. Bị bắt tạm giữ từ ngày 14/5/2023 đến ngày 18/5/2023 chuyển sang áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam T30 - Công an Thành phố Hồ Chí Minh (bị cáo có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 14/5/2023, Công an phường VTS nhận được tin báo của anh Nguyễn Trí T (nhân viên khách sạn Trà My địa chỉ số 41 LCT, phường VTS, Quận 3) về việc tại phòng 302 có khách thuê phòng có dấu hiệu sử dụng trái phép chất ma túy. Công an phường VTS đã cử lực lượng đến kiểm tra phòng 302 lầu 3 của khách sạn thì phát hiện Trần Quốc D đang sử dụng trái phép chất ma túy, trên bàn cạnh đầu giường bên phải có 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy và 01 gói nylon bên trong có chứa tinh thể không màu, D khai nhận là ma túy đá nên bị thu giữ toàn bộ vật chứng đưa về Công an phường VTS, Quận 3 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 xử lý.
Về nguồn gốc ma túy bị lực lượng Công an thu giữ Trần Quốc D khai nhận: Vào khoảng 13 giờ 00 ngày 11/5/2023, D có mua ma túy đá của một nam thanh niên tên “Nhóc” (không rõ lai lịch) với giá khoảng 800.000 đồng trên đường CMTT (không rõ địa chỉ). Sau khi mua được ma túy thì D đến khách sạn Trà My địa chỉ 41 LCT, phường VTS, Quận 3 thuê phòng 302 để ở và sử dụng ma túy. Đến khoảng 20 giờ 15 phút ngày 14/5/2023, khi D đang ở phòng 302 sử dụng ma túy thì bị Công an Phường VTS, Quận 3 kiểm tra bắt quả tang như nêu trên.
Tại Bản kết luận giám định số 5138/KL-KTHS ngày 22/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành Phố Hồ Chí Minh (bút lục số 34), xác định: Tinh thể không màu trong một gói nylon được niêm phong bên ngoài có đấu vân tay, chữ ký ghi tên Trần Quốc D có khối lượng 0,3606 gam, là ma túy thể rắn, loại Methamphetamine.
Vật chứng vụ án:
- Đối với 01gói ký hiệu 1111/23, mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định: Tinh thể không màu có khối lượng 0,3150 gam, được niêm phong có chữ ký của Giám định viên Lê thị Hằng và chữ ký Cán bộ điều tra Lê Minh Sang là vật cấm lưu hành nghĩ nên tịch thu và tiêu hủy; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu và tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu trắng, là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Asus màu xám, không liên quan đến vụ án nghĩ nên giao trả cho Trần Quốc D.
- Đối với 01 xe máy hiệu Exiter màu xanh đen, biển số 59F2-437.XX, số khung RLCUG1210NY089882, số máy G3M5E-177692, qua xác minh do Trần Quốc D đứng tên sở hữu là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
Tại bản cáo trạng số 74/CT-VKS-Q3 ngày 08/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo Trần Quốc D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay:
- Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đề nghị xử phạt bị cáo từ 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù giam; tịch thu và tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo 01gói ký hiệu 1111/23, mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định: Tinh thể không màu có khối lượng 0,3150 gam; tịch thu và tiêu hủy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy ; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu trắng, giao trả cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Asus màu xám vỏ máy không thể hiện số Imei không liên quan đến vụ án; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 xe máy hiệu Exiter màu xanh đen, biển số 59F2-437.XX, số khung RLCUG1210NY089882, số máy G3M5E-177692.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình điều tra, truy tố của Cơ quan điều tra Công an Quận 3, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, kiểm sát viên đã thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo Bộ luật tố tụng hình sự qui định. Quá trình điều tra bị cáo cũng không có bất cứ ý kiến hoặc khiếu nại gì về các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng. Vì vậy có cơ sở xác định các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với nội dung Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an Phường VTS, Quận 3 lập ngày 15/5/2023 (BL 23-24); Bản kết luận giám định số 5138/KL-KTHS ngày 22/5/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh; phù hợp nội dung các lời khai của nhân chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra. Vì vậy đã có đủ cơ sở kết luận như sau:
khoảng 20 giờ 15 phút ngày 14/5/2023 Công an phường VTS nhận được tin báo của nhân viên khách sạn Trà My địa chỉ số 41 LCT tại lầu 3 phòng 302 có khách sử dụng ma túy, Công an phường VTS đến kiểm tra thì phát hiện bắt quả tang Trần Quốc D đang sử dụng ma túy loại Methamphetamine nên đưa D về trụ sở Công an phường VTS lập biên bản phạm tội quả tang chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 xử lý theo thẩm quyền.
[3] Xét, bị cáo là người đã thành niên, nghiện ma túy nên biết rõ Methamphetamine là chất độc hại, sẽ hủy hoại và tàn phá cơ thể người sử dụng, nhưng vì lối sống thiếu lành mạnh nên bị cáo đã xem thường lợi ích chung của xã hội, xem thường sự trừng trị của pháp luật cố ý thực hiện việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma túy, chống lại chủ trương bài trừ tệ nạn ma túy và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội.
[4] Căn cứ từ các yếu tố nêu trên, đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo là người không được phép tàng trữ các chất ma túy nhưng bị cáo đã cất giữ 0,3606g (không phẩy ba sáu không sáu gam) loại Methamphetamine để sử dụng trái phép là đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[5] Xét, bị cáo có nhân thân: Ngày 24/02/2012 Tòa án nhân dân Quận 9 xử phạt 01 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại bản án số 09/HSST; ngày 29/11/2016 Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “ Cướp giật tài sản” tại bản án số 212/HSST; ngày 08/12/2020 Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 309/QĐ-TA .Vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.
[6] Tuy nhiên cũng xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn, hối lỗi nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[7] Từ những cơ sở trên, nghĩ cần căn cứ Điều 50 Bộ luật Hình sự quy định về căn cứ quyết định hình phạt, Điều 38 Bộ luật Hình sự quy định về tù có thời hạn; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để quyết định một hình phạt tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo.
[8] Đối với đối tượng bán ma túy cho Trần Quốc D do không xác định được lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý hình sự.
[9] Về xử lý vật chứng:
- Đối với mẫu vật còn lại sau giám định: 01gói ký hiệu 1111/23, mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định: Tinh thể không màu có khối lượng 0,3150 gam, được niêm phong có chữ ký của Giám định viên Lê thị Hằng và chữ ký Cán bộ điều tra Lê Minh Sang là vật cấm lưu hành nghĩ nên tịch thu và tiêu hủy.
- Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu và tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu trắng là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Asus màu xám không liên quan đến vụ án nghĩ nên giao trả cho Trần Quốc D.
- Đối với 01 xe máy hiệu Exiter màu xanh đen, biển số 59F2-437.XX, số khung RLCUG1210NY089882, số máy G3M5E-177692, là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 tại phiên tòa là phù hợp tính chất, mức độ phạm tội, phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử, nghĩ nên chấp nhận.
[11] Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 38; Điều 50; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Trần Quốc D.
Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Căn cứ các Điều 331, 333, 336 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Trần Quốc D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Trần Quốc D 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo 15/5/2023.
- Tịch thu và tiêu hủy 01 gói ký hiệu 1111/23, mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định: Tinh thể không màu có khối lượng 0,3150 gam, được niêm phong có chữ ký của Giám định viên Lê thị Hằng và chữ ký Cán bộ điều tra Lê Minh Sang.
- Giao trả cho Trần Quốc D 01 điện thoại di động hiệu Asus màu xám không thể hiện số Imei.
- Tịch thu và nộp ngân sách nhà nước 01 xe máy hiệu Exiter màu xanh đen, biển số 59F2-437.XX, số khung RLCUG1210NY089882, số máy G3M5E-177692 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu trắng.
(Tài sản tịch thu, tiêu hủy, nộp ngân sách nhà nước và giao trả cho Trần Quốc D được ghi trong Lệnh nhập kho vật chứng số 711/LNK-CSĐT(MT) ngày 07/7/2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 3).
Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 72/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 72/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về