TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG XƯƠNG, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 72/2023/HS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa xét xử kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 67/2023/HSST ngày 30/8/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2023/QĐXXST-HS ngày 15/9/2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Thái S - sinh ngày 15/4/2000 Nơi cư trú: thị trấn C, huyện P, tỉnh Hòa Bình,; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trung D và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án,tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/6/2023 đến ngày 30/6/2023 chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quảng Xương.
Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Cháu Nguyễn Thị Yến M - sinh ngày 23/6/2009 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Trần Thị L - sinh năm 1985 (Mẹ đẻ). Cùng địa chỉ: xã H, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị D - sinh năm 1992 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: phường Đ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
* Người làm chứng:
Anh Nguyễn Bá H - sinh năm 1973 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: xã H, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thông qua mạng xã hội Facebook, ngày 26/04/2022 cháu Nguyễn Thị Yến M - sinh ngày 23/06/2009 ở xã H, huyện Quảng Xương làm quen; nói chuyện với Nguyễn Thái S. Cả hai phát sinh tình cảm yêu đương nam nữ. Ngày 20/06/2023 do gần đến sinh nhật của cháu M nên S đã gọi điện thoại và hẹn gặp cháu M thì cháu M đồng ý. Khoảng 4 giờ 00 phút ngày 21/06/2023 S bắt xe khách từ nhà mình đến thành phố Thanh Hóa. Sau đó S có thuê 01 chiếc xe mô tô tại một cửa hàng cho thuê xe máy ở thành phố Thanh Hóa rồi điều khiển xe mô tô tìm đến địa chỉ nhà nghỉ Hoa Mộc Lan ở xã H, huyện Quảng Xương ở gần nhà cháu M. Khi đến nơi S thuê phòng số 203 và gọi điện thoại cho cháu M để bảo cháu M chủ động lên phòng số 203 của nhà nghỉ để gặp S. Khoảng 8 giờ ngày 21/06/2023 thì Nguyễn Thị Yến M đi xe đạp đến nhà nghỉ Hoa Mộc Lan và đi lên phòng 203 để gặp S. S và cháu M nói chuyện khoảng 30 phút thì S nảy sinh ham muốn tình dục với cháu M nên S vòng hai tay ôm ngang eo cháu M rồi cả hai cùng nằm xuống giường; S dùng tay sờ, bóp ngực M, vừa bóp vừa nói “Dạo này xinh lắm rồi đấy” và hỏi M “cho anh quan hệ nhá” M không nói gì và gật đầu đồng ý. S và cháu M tự cởi quần áo của mình ra; cháu M nằm ngửa trên giường, S dùng hai tay dạng hai chân của M ra rồi quỳ vào giữa hai chân của cháu M, sau đó dùng tay cầm dương vật đang cương cứng của S đút sâu vào trong âm đạo của M để quan hệ tình dục; cháu M nằm im. Khoảng 10 phút thì S xuất tinh, do không dùng bao cao su nên S rút dương vật ra khỏi âm đạo của cháu M rồi xuất tinh ra ga giường. Lúc này S đi vào nhà vệ sinh dùng nước rửa dương vật sau đó S và cháu M tự mặc quần áo và nằm trên giường nói chuyện với nhau. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, S và cháu M đi xuống quầy lễ tân để thanh toán tiền phòng. Sau khi thanh toán tiền phòng xong cả hai ra về thì vừa đi đến cổng nhà nghỉ Hoa Ngọc Lan thì bố đẻ của cháu M là ông Nguyễn Bá H - sinh năm 1973 đi tìm cháu M đến, nhìn thấy S và cháu M đi từ nhà nghỉ ra nên đưa cháu M về nhà. Sau đó cháu M cùng gia đình đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Quảng Xương trình báo sự việc.
Biết không thể trốn tránh và nhận thức được hành vi quan hệ tình dục với cháu M là vi phạm pháp luật; khoảng 13 giờ 30 phút ngày 21/06/2023 Nguyễn Thái S đã đến cơ quan CSĐT Công an huyện Quảng Xuơng đầu thú về hành vi của mình.
Tại Bản kết luận giám định số: 60/KLTDTE-PYTH ngày 29 tháng 06 năm 2023 của Trung tâm pháp y Thanh Hóa; kết luận: Tại thời điểm khám giám định cho Nguyễn Thị Yến M:
- Môi lớn: Không thấy tổn thương.
- Môi bé: Không thấy tổn thương.
- Âm hộ: Không thấy tổn thương.
- Màng trinh: Rách cũ vị trí 3 giờ (Không đủ chứng cứ khoa học và các dữ liệu khách quan để xác định chính xác về thời gian rách màng trinh của Nguyễn Thị Yến M).
- Âm đạo: Không thấy tổn thương.
- Tầng sinh môn: Không thấy tổn thương.
- Hậu môn: Không thấy tổn thương.
- Nguyễn Thị Yến M không có thai.
- Không phát hiện thấy ADN nhiễm sắc thể Y từ dấu vết tăm bông thu chất bám dính tại bộ phận sinh dục của cháu Nguyễn Thị Yến M.
+ Phân tích được ADN nhiễm sắc thể Y từ mẫu máu của Nguyễn Thái S. Bản kết luận giám định số: 61/KLKNTD-PYTH ngày 29 tháng 06 năm 2023 của Trung tâm pháp y Thanh Hóa, kết luận: Qua thăm khám giám định và các kết quả cận lâm sàng, các chứng cứ khách quan thu được, xác định Nguyễn Thái S tại thời điểm giám định có đủ khả năng sinh lý làm cương cứng dương vật để quan hệ tình dục.
Kết luận khác: Dấu vết tăm bông thu chất bám dính tại bộ phận sinh dục của Nguyễn Thái S có sinh phẩm của người, có ADN nhiễm sắc thể thường bị trộn lẫn của 2 người; trùng khớp với ADN nhiễm sắc thể thường từ mẫu máu của Nguyễn Thị Yến M.
Ngày 23/06/2023, Cơ quan điều tra trưng cầu phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá giám định sinh học đối với 02 chiếc khăn màu trắng; 01 ga giường màu trắng; 01 vỏ chăn màu trắng; 02 vỏ gối màu trắng là vật chứng thu giữ tại nhà nghỉ Hoa Ngọc Lan mang dấu vết phạm tội của Nguyễn Thái S.
Kết quả: Tại Bản kết luận giám định số: 2669/KL - KTHS ngày 14/07/2023, của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận: 01 ga giường màu trắng gửi đến giám định có ADN của Nguyễn Thái S. 02 chiếc khăn màu trắng, 01 vỏ chăn màu trắng, 02 vỏ gối màu trắng gửi đến giám định đều có ADN người. Do nồng độ ADN thấp nên không xác định được kiểu Gen (ADN).
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thái S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với tài liệu, chứng cứ điều tra thu thập được.
Về trách nhiệm dân sự: Cháu M và đại diện hợp pháp của cháu M không có yêu cầu đề nghị Nguyễn Thái S phải bồi thường gì về dân sự cho cháu M.
Đối với chiếc điện thoại S sử dụng để liên lạc rủ cháu M đến nhà nghỉ quan hệ tình dục, theo S trình bày chiếc điện thoại mang nhãn hiệu Nokia màu đen, trên đường đến Cơ quan Công an đầu thú S đã ném đi, ném ở đâu S không nhớ rõ nên Cơ quan điều tra không truy thu được.
Đối với chiếc xe mô tô S sử dụng để đi đến nhà nghỉ sau đó thực hiện hành vi quan hệ tình dục với cháu M. S trình bày thuê của một cửa hàng cho thuê xe cũ tại thành phố Thanh Hoá, không rõ địa chỉ và sau đó đã mang trả lại cho cửa hàng này trước khi đến Cơ quan Công an đầu thú nên Cơ quan điều tra không tiến hành truy thu.
Đối với vật chứng của vụ án: 02 chiếc khăn màu trắng; 01 ga giường màu trắng; 01 vỏ chăn màu trắng; 02 vỏ gối màu trắng là vật chứng thu giữ tại nhà nghỉ Hoa Ngọc Lan là tài sản của nhà nghỉ Hoa Ngọc Lan nên cần trả lại cho chủ nhà nghỉ là chị Nguyễn Thị D - sinh năm 1997 ở phường Đ, thành phố Thanh Hóa.
Tại bản Cáo trạng số 70/CTr - VKSQX ngày 30/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương đã truy tố bị cáo Nguyễn Thái S về tội: “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 145 của BLHS.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như cáo trạng đã nêu và đề nghị HĐXX áp dụng: Khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của BLHS và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo. Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật TTHS. Điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 21; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí và lệ phí Tòa án; Mục 1, Phần I Danh mục án phí Tòa án. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thái S từ 24 đến 27 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 48 đến 54 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Tuyên trả tự do cho bị cáo.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về dân sự: Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu gì khác nên không xem xét.
Về vật chứng: Trả lại cho chị Nguyễn Thị D - sinh năm 1997 ở phường Đ, thành phố Thanh Hóa là chủ nhà nghỉ Hoa Ngọc Lan: 02 chiếc khăn màu trắng; 01 ga giường màu trắng; 01 vỏ chăn màu trắng; 02 vỏ gối màu trắng.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời sau cùng bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quảng Xương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại và đại diện hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, biên bản hiện trường, kết luận giám định cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở chứng minh: Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 21/06/2023 tại phòng 203 nhà nghỉ Hoa Ngọc Lan ở xã H, huyện Quảng Xương; Nguyễn Thái S đã thực hiện hành vi giao cấu với cháu Nguyễn Thị Yến M - sinh ngày 23/06/2009. Tính đến ngày 21/6/2023 thì cháu Nguyễn Thị Yến M mới 13 tuổi 11 tháng 28 ngày.
Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận hành vi nêu trên của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội: “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 145 của BLHS. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương truy tố bị cáo về tội: “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 145 của BLHS là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Đánh giá tính chất của vụ án và nhân thân của bị cáo:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được bảo vệ về thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em. Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng do xem thường pháp luật, suy thoái về đạo đức, lối sống. Hành vi của bị cáo đã thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, gây tác hại đến sự phát triển đạo đức, nhân cách và ảnh hưởng đến cuộc sống sau này của bị hại. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Xét về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:
- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tác động đến gia đình tự nguyện bồi thường cho bị hại, bản thân bị cáo không tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội đã ra đầu thú. Bị cáo và bị hại yêu nhau nên khi quan hệ tình dục được sự đồng ý của bị hại. Bị cáo có ông nội tham gia hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và là người đang hưởng chế độ người có công với cách mạng (ông nội bị cáo bị nhiễm chất độc da cam 61%), được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất. Bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và đề nghị cho bị cáo được chấp hành án tại địa phương. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Xét tính chất của vụ án và nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo HĐXX xét thấy: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội mà áp dụng Điều 65 BLHS 2015 và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cho bị cáo hưởng án treo, cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ sức giáo dục và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về dân sự: Đại diện hợp pháp cho bị hại và bị hại không có yêu cầu bồi thường gì khác nên HĐXX không xem xét.
[7] Về vật chứng: Trả lại cho chị Nguyễn Thị D - sinh năm 1997 ở phường Đ, thành phố Thanh Hóa là chủ nhà nghỉ Hoa Ngọc Lan: 02 chiếc khăn màu trắng; 01 ga giường màu trắng; 01 vỏ chăn màu trắng; 02 vỏ gối màu trắng.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của BLHS và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo. Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 21; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí và lệ phí Tòa án; Mục 1, Phần I Danh mục án phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thái S phạm tội: “Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi”.
- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thái S 24(Hai mươi tư) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 48(Bốn mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Thái S cho Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện P, tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Tuyên trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo.
- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về dân sự: Đại diện hợp pháp cho bị hại và bị hại không yêu cầu bồi thường gì khác nên HĐXX không xem xét.
- Về vật chứng: Trả lại cho chị Nguyễn Thị D - chủ nhà nghỉ Hoa Ngọc Lan: 02 chiếc khăn màu trắng; 01 ga giường màu trắng; 01 vỏ chăn màu trắng;
02 vỏ gối màu trắng.
(Toàn bộ số vật chứng trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Xương theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/9/2023).
- Án phí: Bị cáo Nguyễn Thái S phải nộp 200.000đ án phí HSST.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người đại diện hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 72/2023/HS-ST về tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi
Số hiệu: | 72/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quảng Xương - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về