Bản án 72/2021/HNGĐ-ST ngày 11/06/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

 BẢN ÁN 72/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/06/2021 VỀ LY HÔN

 Ngày 11 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 504/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 46/2021/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Lê Thị H - sinh năm 1979 (vắng mặt) ĐKTT: ấp C, xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Văn K - sinh năm 1980 (vắng mặt) ĐKTT: ấp C, xã S, huyê n X, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị H Trình bày:

Chị Lê Thị H và anh Văn K tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn vào ngày 13/11/2000 tại UBND xã S. Trong cuộc sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do anh K ghen tuông, rượu chè, không lo làm ăn, nhiều lần cầm dao dọa chém vợ. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn được nữa, vợ chồng sống ly thân từ tháng 7 năm 2020 cho đến nay. Nay, chị H yêu cầu được ly hôn vì không thể tiếp tục chung sống với anh K.

Vợ chồng có 04 con chung tên Văn D – sinh ngày 23/6/2001, Văn H1 - sinh ngày 12/11/2003, Văn H2 - sinh ngày 28/3/2005, Văn Thị Kim A - sinh ngày 04/9/2009. Hiện các con chung đang chung sống tại căn nhà chung với anh K, còn chị H ra ngoài thuê nhà trọ sống riêng. Nay do điều kiện kinh tế khó khăn, chị H có ý kiến giao cả 03 cháu Văn H1, Văn H2 và Văn Thị Kim A cho anh K nuôi dưỡng, chị H đề nghị tạm miễn việc cấp dưỡng nuôi con. Còn cháu Văn D đã trưởng thành nên không xem xét vấn đề nuôi dưỡng.

Vợ chồng không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Văn K đã được Tòa án triệu tập nhiều lần, nhưng vẫn không đến Tòa án làm việc, anh K cũng không cung cấp chứng cứ hay trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Anh K cũng không đưa các con chung đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc muốn sống chung với cha hay mẹ sau khi cha mẹ ly hôn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Bị đơn không chấp hành triệu tập của Tòa án là không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Lê Thị H được ly hôn với anh Văn K; giao 03 con chung Văn H1 - sinh ngày 12/11/2003, Văn H2 - sinh ngày 28/3/2005 và Văn Thị Kim A- sinh ngày 04/9/2009 cho anh K nuôi dưỡng. Tạm miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho chị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị H và anh Văn K tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn vào ngày 13/11/2000, nên hôn nhân của anh chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

[2] Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: Chị H cho rằng cuộc sống chung của vợ chồng không có hạnh phúc, nguyên nhân do anh K ghen tuông, rượu chè, không lo làm ăn, nhiều lần anh K cầm dao dọa chém vợ. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn được nữa, vợ chồng sống ly thân từ tháng 7/2020 cho đến nay. Nay chị H xác định không còn tình cảm vợ chồng và không còn muốn tiếp tục chung sống với anh K, còn anh K thì cũng thờ ơ, không còn quan tâm trong tình cảm đối với chị H, vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Do đó, tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh K đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài. Nghĩ nên chấp nhận cho chị H được ly hôn với anh K.

[3] Về con chung: Chị H và anh K có 04 con chung tên Văn D – sinh ngày 23/6/2001, Văn H1 - sinh ngày 12/11/2003, Văn H2 - sinh ngày 28/3/2005 và Văn Thị Kim A - sinh ngày 04/9/2009. Hiện các con chung đang chung sống tại căn nhà chung với anh K, còn chị H ra ngoài thuê nhà trọ sống riêng. Nay do điều kiện kinh tế khó khăn, chị H có ý kiến giao cả 03 cháu Văn H1, Văn H2 và Văn Thị Kim A cho K nuôi dưỡng, chị H đề nghị tạm miễn việc cấp dưỡng nuôi con. Còn cháu Văn D đã trưởng thành nên không xem xét vấn đề nuôi dưỡng. Xét lời trình bày của chị H về điều kiện sinh sống, nuôi dưỡng các con, nghĩ nên giao cho anh K nuôi dưỡng các cháu để ổn định cuộc sống của các cháu là phù hợp. Anh K không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét, giải quyết.

[4] Về nợ chung: Chị H khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[6] Về án phí: Chị H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận cho chị Lê Thị H được ly hôn với anh Văn K.

2. Về con chung: Giao 03 con chung gồm Văn H1 - sinh ngày 12/11/2003, Văn H2 - sinh ngày 28/3/2005 và Văn Thị Kim A - sinh ngày 04/9/2009 cho anh Văn K trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Chị Lê Thị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền ngăn cản.

Khi cần thiết, chị Lê Thị H và anh Văn K được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Lê Thị H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) chị Lê Thị H nộp theo biên lai thu số 0004193 ngày 12/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc được tính trừ vào án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 72/2021/HNGĐ-ST ngày 11/06/2021 về ly hôn

Số hiệu:72/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;