Bản án 72/2021/HNGĐ-ST ngày 01/04/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 72/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 01 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 186/2021/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2021/QĐXX-ST ngày 17/3/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Ấp Bình Tiền 1, xã Đ1, huyện Đ, tỉnh Long An (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thế C, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Ấp Bình Tả 2, xã Đ1, huyện Đ, tỉnh Long An (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời trình bày tại phiên tòa của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H thể hiện:

Bà H và ông Nguyễn Thế C chung sống với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ1 vào ngày 20/10/2008. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông C thường xuyên tụ tập bạn bè rồi về chửi bới bà H, vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên gây gổ. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên bà H yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Thế C.

Về con chung: Ông bà có 01 con chung tên Nguyễn Mỹ D, sinh ngày 05/12/2008. Trong đơn khởi kiện và quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con.

Tại phiên tòa, bà đồng ý giao cháu D cho ông C nuôi dưỡng, có điều kiện bà sẽ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Nguyễn Thế C trình bày trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án và tại phiên tòa:

Ông C thống nhất với lời trình bày của bà Nguyễn Thị H về thời gian chung sống; điều kiện kết hôn và con chung. Tuy nhiên, ông nhận thấy vợ chồng không có mâu thuẫn gì đến mức phải ly hôn. Ông đề nghị bà H cho ông thời gian 06 tháng để ông sửa đổi những tật xấu của mình. Nếu ông không sửa đổi được thì ông đồng ý ly hôn. Tại phiên tòa, ông có ý kiến, ông sẽ đồng ý với quyết định của Hội đồng xét xử.

Về con chung: Ông bà có 01 con chung tên Nguyễn Mỹ D, sinh ngày 05/12/2008. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ông bà ly hôn, ông đồng tiếp tục nuôi dưỡng con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị H nộp đơn khởi kiện ly hôn với ông Nguyễn Thế C có địa chỉ cư trú tại xã Đ1, huyện Đ, tỉnh Long An nên căn cứ vào Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp “ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa.

[3] Về nội dung:

Quan hệ hôn nhân: Bà H và ông C tự nguyện tiến đến hôn nhân, chung sống với nhau từ năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ1 vào ngày 20/10/2008 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình. Bà H yêu cầu ly hôn vì cho rằng ông C thường xuyên tụ tập bạn bè rồi về chửi bới bà, vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên gây gổ. Bị đơn ông C cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì dẫn đến ly hôn nhưng ông đồng ý với quyết định của Hội đồng xét xử.

Xét thấy, bà H và ông C đều thừa nhận vợ chồng không còn sống chung, không còn quan tâm lo lắng cho nhau. Mẫu thuẫn giữa hai bên không hòa giải được. Tại phiên tòa, bà H vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn, ông C không đồng ý, đã đề nghị Tòa án cho thời gian để vợ chồng hàn gắn nhưng đến nay ông cũng không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn quan hệ hôn nhân.

Do đó, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Thế C là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân của các bên không đạt được, nên căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị H.

Về con chung: Bà H và ông C có 01 con chung tên là Nguyễn Mỹ D, sinh ngày 05/12/2008. Khi ly hôn, bà H đồng ý để ông C tiếp tục nuôi dưỡng con chung, có điều kiện bà sẽ cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, cháu D hiện trên 07 tuổi. Tại bản tự khai của cháu D, cháu trình bày, trường hợp Tòa án giải quyết cho cha mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng sống cùng cô ba. Theo quy định của Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử phải xem xét đến nguyện vọng của con chung từ đủ 07 tuổi. Tuy nhiên, cháu D không có nguyện vọng sống cùng cha hoặc mẹ khi ly hôn. Tại phiên tòa, bà H và ông C thỏa thuận giao con chung cho ông C tiếp tục nuôi dưỡng. Căn cứ vào điều kiện của các bên, quyền lợi về mọi mặt và lợi ích của con, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Nguyễn Mỹ D, sinh ngày 05/12/2008 cho ông C tiếp tục nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông C không yêu cầu nên bà H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điều 18, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Nguyễn Thị H.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Thế C.

Về con chung: Ông Nguyễn Thế C được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Mỹ D, sinh ngày 05/12/2008.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Khi cần thiết các bên có thể thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà bà H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007568 ngày 01/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa. Bà H đã nộp xong.

Về quyền kháng cáo: Đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 72/2021/HNGĐ-ST ngày 01/04/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:72/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;