TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 72/2020/HS-ST NGÀY 07/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 67/2020/TLST- HS ngày 21/9/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T, sinh ngày 02 tháng 8 năm 1981 tại Thanh Hóa. Nơi ĐKHKTT: thôn 2, xã Hoằng Th, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nơi đăng ký tạm trú: thôn 2, xã Hoằng Th, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp; Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính:Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; con ông Nguyễn Văn Cừ( đã chết) và bà Đỗ Thị Kham;
vợ: Nguyễn Thị Hiên, 02 con: Lớn sinh năm 2002 nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 29/10/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 33 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Ngày 15/11/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/7/2020 đến nay. Có mặt.
1. Người làm chứng:
- Anh Lê Văn Sơn, sinh năm 1995. Vắng mặt Địa chỉ: thôn Trung Sơn, xã Hoằng Châu, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
2.Người chứng kiến:
- Anh Lê Ngọc Hùng, sinh năm 1982. Vắng mặt Địa chỉ: thôn 1, xã Hoằng Thành, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 11h ngày 13/7/2020 Đội điều tra Tội phạm về ma túy Công an huyện Hoằng Hóa phối hợp với Ban Công an xã Hoằng Th đang làm nhiệm vụ tại thôn 1, xã Hoằng Th, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật chứng thu giữ trong túi quần bên trái 01 gói giấy màu trắng có dòng kẻ kích thước ( 4,5 x 5 cm ) bên trong có chứa các cục bột màu trắng ngà Thọ khai đó là Hêrôin. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và lập biên bản niêm phong vật chứng nêu trên để trưng cầu giám định.
Thực hiện lệnh khám xét khẩn cấp số 31/CSĐT ngày 13/7/2020 của CQĐT – CAHH tại nơi ở của Nguyễn Văn Thọ ở thôn 2, xã Hoằng Th, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa CQĐT - CAHH không thu giữ gì.
Tại kết luận giám định số: 1921/MT- PC54 ngày 17/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận:
+ Các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,175g loại: Heroin.
Trong giai đoạn điều tra và truy tố Nguyễn Văn T khai nhận: Thọ là người nghiệm chất ma túy; Vào khoảng 10 giờ ngày 13/7/2020 Thọ đi bộ lên khu vục xã Hoằng Lộc bắt xe buýt lên chân cầu Nguyệt Viên xã Hoằng Quang, thành phố Thanh Hóa mua 01 gói ma túy của 01 người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ với giá 200.000đ ( hai trăm nghìn đồng) đem về xã Hoằng Th tìm nơi để sử dụng. Khi đi đến thôn 1, xã Hoằng Th thì bị tổ công tác đội CSĐT Tội phạm về ma túy Công an huyện Hoằng Hóa phát hiện bắt quả tang.
Về vật chứng của vụ án: Số ma túy còn lại sau khi giám định theo biên bản giao nhận ngày 13/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. CQĐT – CAHH đã chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa để chờ xét xử.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi đúng như nêu trên, phù hợp với tài liệu, chứng cứ và lời khai của người làm chứng có trong hồ sơ vụ án.
Bản cáo trạng số 74/CTr-VKSHH ngày 20/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa truy tố bị cáo Nguyễn Văn Thọ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với mức hình phạt từ 18 đến 24 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/7/2020.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số 1921/MT-PC09 dùng vào việc phạm tội.
Đề nghị buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Văn T trình bày: Chỉ vì chơi bời bị cáo dùng ma túy nên bị cáo phạm tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hoằng Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, bị cáo lên khu vực cầu Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, TP.Thanh Hóa, mua ma túy của một người đàn ông không rõ địa chỉ về sử dụng thì bị thu giữ số ma túy đã được giám định có tổng khối lượng 0,175g loại Hêroin.
[3] Hành vi cất giấu chất Hêroin trái phép nhằm mục đích để sử dụng của bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[4] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là một trong những nguyên nhân làm lan truyền căn bệnh HIV/AIDS, là hiểm họa đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy, đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng: Chất ma túy là vật cấm tự do lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số 1921/MT-PC09, đã dùng vào việc phạm tội.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo. Do bị cáo không biết tên tuổi địa chỉ chỉ nên không có căn cứ xác minh xử lý, vì vậy HĐXX không xem xét.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T: 21( hai mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/7/2020. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự ; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số 1921/MT-PC09.
( Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại chi cục thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 65/BBGN ngày 29/9/2020).
Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình; Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 72/2020/HS-ST ngày 07/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 72/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/10/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về