TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 72/2020/HS-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 07 tháng 9 năm 2020 tại Phòng xử án hình sự, trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 70/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:
Vương Do S, sinh ngày 07/6/1979, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: XX Hàn Hải Nguyên, Phường 9, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Thợ hàn; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Tư C (chết) và bà Châu Di H; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 11/03/2003 bị Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào Cơ sở chữa bệnh bắt buộc trong thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 2698/QĐ-UB. Ngày 18/8/2005 bị TAND tỉnh Đắk Nông xử phạt 01 năm tù giam về tội “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Bản án số 74/2005/HSST. Ngày 29/3/2006 bị TAND tỉnh Đắk Nông xử phạt 9 tháng tù giam về tội “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Bản án số 35/2006/HSST. Ngày 25/4/2008 bị TAND quận Bình Tân xử phạt 01 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 79/2008/HSST. Ngày 11/3/2003 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào Cơ sở chữa bệnh trong thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 2698/QĐ-UB. Ngày 12/5/2009 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào Cơ sở chữa bệnh trong thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 1262/QĐ-UBND. Ngày 01/12/2011 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 11 đưa vào Cơ sở chữa bệnh (Lần 2), thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 997/QĐ-UBND; bị bắt tạm giam từ ngày 15/02/2020; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Em Nguyễn Mai Quốc Đ, sinh ngày 23/01/2004; nơi cư trú: XXX Lạc Long Quân, Phường X, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh (là bị cáo đang bị tạm giam trong một vụ án khác); vắng mặt tại phiên tòa.
- Người giám hộ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Võ Thị Trà M, sinh năm 1991 - Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Phường 3, Quận 11; địa chỉ: xxx Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1963; nơi cư trú: XXX Lạc Long Quân, Phường X, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Hoàng Cg, sinh năm 1968; nơi cư trú: xxxx Lạc Long Quân, Phường X, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 01 giờ ngày 15/02/2020, Tổ tuần tra Công an Phường 3, Quận 11, đi tuần tra đến trước nhà số 94 Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11 phát hiện đối tượng Vương Do S và đối tượng Nguyễn Mai Quốc Đ (sinh năm: 2004; nơi cư trú: xxx đường Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11) đang đi bộ trên lề đường có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, Tổ tuần tra phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của đối tượng S có 02 gói nylon chứa chất tinh thể không màu và 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng được quấn lại, bên trong tờ tiền có chứa chất tinh thể không màu. Đối tượng S khai chất tinh thể không màu nêu trên là ma túy. Tổ tuần tra đưa đối tượng S cùng vật chứng về trụ sở Công an Phường 3, Quận 11 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 xử lý. (BL 32)
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của bị can Vương Do S tại nhà số xx Hàn Hải Nguyên, Phường 9, Quận 11 và đã phát hiện, thu giữ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (42-45).
Tại bản Kết luận giám định số 320/KLGĐ-H ngày 21/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công anh Thành phố Hồ Chí Minh xác định: “Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định (đã nêu ở mục II.1) đều là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5331g (không phẩy năm ba ba một gam), loại Methamphetamine”. (BL 52).
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, bị can S khai nhận: Vào tối ngày 14/02/2020 bị can S đi bộ trên đường Lạc Long Quân, khi đến trước Phòng cho thuê Thiên Kim, tại địa chỉ số x Lạc long Quân, Phường x, Quận 11, bị can S nhặt được 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được quấn lại bên trong có chứa chất tinh thể không màu và 02 gói nylon chứa chất tinh thể không màu. Bị can S biết đây là ma túy nên cất giữ vào trong túi quần trước bên phải để sử dụng. Bị can S tiếp tục đi bộ đến trước nhà số 94 Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11 thì gặp đối tượng Nguyễn Mai Quốc Đ. Cùng lúc này, Tổ tuần tra Công an Phường 3, Quận 11 đi tuần đến yêu cầu kiểm tra và phát hiện, bắt quả tang việc bị can S cất giữ ma túy. Việc bị can S cất giữ số ma túy trên thì đối tượng Đ hoàn toàn không biết. Bị can S khai nhận bắt đầu sử dụng ma túy từ năm 2004 và đã nhiều lần đi cai nghiện ma túy. Khi có nhu cầu sử dụng ma túy thì bị can S mua ma túy của một người đàn ông tên Hùng (không rõ lai lịch) tại đầu hẻm số 93 Lạc Long Quân, Phường 1, Quận 11, cạnh bên điểm bắn cá Happy Zone để sử dụng. Bị can S khai đã 02 lần mua ma túy của tên Hùng. (BL 40-41; 23-27).
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, đối tượng Nguyễn Mai Quốc Đ khai: Khoảng 01 giờ ngày 15/02/2020 sau khi chơi game và trên đường đi về đến trước nhà số 94 Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11 thì đối tượng gặp bị can Vương Do S. Cả hai cùng đi bộ về thì bị Công an kiểm tra phát hiện trong túi quần trước bên phải của bị can S có có 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng được quấn lại bên trong có chứa chất tinh thể không màu và 02 gói nylon chứa chất tinh thể không màu nên đã thu giữ và đưa cả hai về trụ sở Công an Phường 3, Quận 11 làm rõ. Trước đây, đối tượng Đ làm công việc giữ xe ở điểm bắn cá trên đường Đặng Nguyên Cẩn, Phường 14, Quận 6 và có quen biết với bị can S. Việc bị can S cất giữ ma túy trong người thì đối tượng Đ hoàn toàn không biết. (BL 38-39)
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã tiến hành xác minh đối tượng thanh niên tên Hùng, là người đã bán ma túy cho bị can S nhưng không xác định được đối tượng có đặc điểm như lời khai của bị can S. (BL 110).
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã phối hợp cùng với Bệnh viện Quận 11 tiến hành xét nghiệm chất ma túy qua nước tiểu của bị can Vương Do S vào ngày 15/02/2020. Kết quả xét nghiệm thể hiện bị can Vương Do S có sử dụng ma tuý loại Methamphetamine và Amphetamine (BL 111-112).
Vật chứng thu giữ gồm có:
- Một gói niêm phong chứa ma túy còn lại sau giám định có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra. (BL 55)
- Một điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng xám đã qua sử dụng, là tài sản cá nhân của bị can S. (BL 54)
- Một bộ dụng cụ sử dụng ma túy. (BL 54)
- Một tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng. (BL 54)
Tại Bản cáo trạng số 71/CT-VKSQ11 ngày 31/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị can Vương Do S tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo Vương Do S có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là đối tượng Nguyễn Mai Quốc Đ; người làm chứng là ông Nguyễn Thanh L và ông Nguyễn Hoàng Cg vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm 06 tháng tù; đề nghị xử lý vật chứng như sau: Tịch thu tiêu hủy đối với số ma túy còn lại sau giám định và một bộ dụng cụ sử dụng ma túy; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước một tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng; trả lại cho bị cáo Vương Do S một điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng xám.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Vào lúc 01 giờ ngày 15/02/2020, tại trước nhà số 94 Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11, bị cáo Vương Do S đã có hành vi cất giữ trong túi quần trước bên phải hai gói nylon chứa chất tinh thể không màu và 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng được quấn lại, bên trong tờ tiền có chứa chất tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5331g (không phẩy năm ba ba một gam), loại Methamphetamine.
Bị cáo Vương Do S khai nhận có sử dụng và nghiện chất ma túy từ năm 2003. Lời khai này phù hợp với thời gian bị cáo bị áp dụng biện pháp chữa bệnh và bị phạt tù về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy vào các năm 2003, năm 2004, năm 2006, năm 2009 và năm 2011; phù hợp với kết quả xét nghiệm chất ma túy qua nước tiểu của bị cáo do Bệnh viện Quận 11 tiến hành vào ngày 15/02/2020.
Bị cáo Vương Do S cất giấu ma túy nhằm mục đích để sử dụng.
Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, biết rõ ma túy là chất gây nghiện mang tính độc hại cao bị Nhà nước cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển. Song do nghiện ma túy và muốn thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất gây nghiện, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội, chống lại chủ trương bài trừ tệ nạn ma túy của Nhà nước. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng trị và giáo dục bị cáo, đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa chung.
[2] Về tình tiết định khung hình phạt:
Bị cáo tàng trữ chất ma túy là loại Methamphetamine, có khối lượng 0,5331g (không phẩy năm ba ba một gam) nên thuộc trường hợp phạm tội quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về xử lý vật chứng:
Đối với vật chứng là một gói niêm phong chứa ma túy còn lại sau giám định có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra. Đây là vật cấm tàng trữ. Căn cứ điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tịch thu, tiêu hủy.
Đối với vật chứng là một bộ dụng cụ sử dụng ma túy thu giữ của bị cáo Vương Do S là dụng cụ dùng để phạm tội. Căn cứ điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tịch thu, tiêu hủy.
Đối với vật chứng là một điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng xám đã qua sử dụng, là tài sản cá nhân của bị cáo S. Bị cáo không sử dụng tài sản trên vào việc phạm tội. Căn cứ điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét giải quyết trả lại tài sản cho bị cáo.
Đối với vật chứng là một tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng là tài sản dùng vào việc phạm tội. Căn cứ điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét giải quyết tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
[5] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Vương Do S, điều tra viên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 được phân công điều tra, kiểm sát giải quyết vụ án đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên. Do đó, có cơ sở để xác định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.
[6] Về xem xét vai trò, trách nhiệm của các đối tượng có liên quan trong vụ án:
Đối tượng tên Hùng đã có hành vi bán chất ma túy cho bị cáo Vương Do S tại khu vực đầu hẻm số 93 Lạc Long Quân, Phường 1, Quận 11, cạnh điểm trò chơi bắn cá Happy Zone, do chưa xác định được lai lịch của đối tượng nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ; khi điều tra, truy xét được sẽ xử lý sau.
Đối với đối tượng Nguyễn Mai Quốc Đ do quá trình điều tra thể hiện đối tượng không biết bị cáo Vương Do S có hành vi cất giữ chất ma túy nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ. Ngoài ra, quá trình điều tra đã xác định được đối tượng Nguyễn Mai Quốc Đ có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với đối tượng Đ. Hội đồng xét xử xét thấy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã xử lý hành chính đúng nên không xem xét lại.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vĩ các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 50; điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Vương Do S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Vương Do S 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/02/2020.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Tịch thu tiêu hủy một gói được niêm phong bên trong có ma túy còn lại sau khi giám định (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 60/LNK ngày 15/5/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).
Tịch thu tiêu hủy một bộ dụng cụ sử dụng ma túy (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 23/ĐCSMT ngày 14/02/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).
Trả lại cho bị cáo Vương Do S một điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng xám (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 27/LNK ngày 19/02/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).
Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước một tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 27/LNK ngày 19/02/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 và Giấy nộp tiền ngày 03/4/2020 của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam).
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.
Người giám hộ cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 72/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 72/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về