Bản án 72/2020/HS-ST ngày 05/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG - TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 72/2020/HS-ST NGÀY 05/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 75/2020/HSST ngày 14 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 18/10/1979 tại thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Hộ khẩu thường trú: tổ N (tổ B mới), phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở hiện nay: tổ N (tổ B mới), phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12 phổ thông; Con ông: Nguyễn Đức K, sinh năm: 1954; Con bà: Trần Thị H, sinh năm 1957, cùng trú tại: tổ N (tổ B mới), phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Anh, chị, em ruột: Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con cả; Vợ, con: Chưa có.

Tiền sự: Ngày 03/4/2020, Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, hình thức phạt tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) tại quyết định số: 18/QĐ- XPHC.

Tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt từ ngày 17/4/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 12 giờ 00 phút ngày 17/4/2020, Nguyễn Đức T một mình đi bộ từ nhà đến khu vực bến xe khách cũ thuộc tổ M, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng với mục đích tìm mua heroine về sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, dáng giống người nghiện (không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này) nên hỏi mua 100.000 (một trăm nghìn) đồng và người đàn ông đồng ý. T đưa cho người đàn ông số tiền 100.000 (một trăm nghìn) đồng. Người đàn ông này cầm lấy tiền rồi lấy từ trong người ra 01 (một) gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa heroine đưa cho T. Sau đó, T cầm số heroine vừa mua được đi tìm nơi sử dụng. Khi T đến khu vực đầu cầu S thuộc tổ H, phường S, thành phố C thì bị tổ công tác đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố Cao Bằng đến kiểm tra. Do hoảng sợ nên T đã thả gói ma túy đang cầm trong tay xuống đất. Tổ công tác đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố Cao Bằng đã bắt quả tang và thu giữ tang vật đối với T.

Ngày 27/4/2020, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng ra quyết định trưng cầu giám định số 108 đối với vật chứng vụ án. Tại bản kết luận giám định số: 127/GĐMT ngày 06/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine”.

Hành vi của Nguyễn Đức T đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng lập hồ sơ đề nghị truy tố trước pháp luật về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại bản Cáo trạng số: 75/CT-VKSTP ngày 14/7/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức T thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo nhất trí với khối lượng ma túy bị thu giữ và nội dung bản kết luận giám định số: 127/GĐMT ngày 06/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng. Bị cáo có bố là người được nhà nước tặng thưởng huân huy chương kháng chiến, tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo không thể cung cấp được các giấy tờ liên quan. Đối với số tài sản bị thu giữ bị cáo có ý kiến như sau: chiếc điện thoại Nokia là của bị cáo mua để liên lạc hàng ngày. Bị cáo không sử dụng chiếc điện thoại này để trao đổi, mua bán ma túy. Bơm kim tiêm và lọ Novocain bị cáo mua để sử dụng ma túy. Bị cáo không có ý kiến gì đối với số tài sản bị thu giữ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Tại phiên tòa, bị cáo trình bày có bố là người được nhà nước tặng thưởng huân huy chương kháng chiến, tuy nhiên bị cáo không thể cung cấp được các giấy tờ liên quan. Do vậy, bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị: tịch thu, tiêu hủy 01 (một) bơm kim tiêm, 01 (một) lọ Novocain; trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động Nokia do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Về án phí, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh: Tại cơ quan điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định: Hồi 12 giờ 45 phút ngày 17/4/2020 tại khu vực đầu cầu S thuộc tổ H, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng Nguyễn Đức T có hành vi tàng trữ 0,03 (không phảy không ba) gam heroine với mục đích sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội và còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được tác hại nhiều mặt của ma túy nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuy khối lượng ma túy bị cáo T tàng trữ là 0,03 (không phảy không ba) gam nhưng ngày 03/4/2020, bị cáo bị Công an phường Tân Giang, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, hình thức phạt tiền 1.500.000 (một triệu năm trăm nghìn) đồng tại quyết định số: 18/QĐ-XPHC. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a, Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm:

…”.

[3]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

 Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy. Bị cáo đã có một tiền sự vào ngày 03/4/2020 và chưa có tiền án.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo”quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, bị cáo trình bày có bố là người được nhà nước tặng thưởng huân huy chương kháng chiến, tuy nhiên bị cáo không thể cung cấp được các giấy tờ liên quan. Do vậy, bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong vụ án này, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4]. Về hình phạt chính: Căn cứ vào nhân thân của bị cáo; tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi bị cáo gây ra và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Nguyễn Đức T là đối tượng không thể tự cải tạo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ để cải tạo giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung trong xã hội. Mức đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đối với bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù là hoàn toàn phù hợp, cần được chấp nhận.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) còn quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”. Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) điện thoại di động màu đen mặt trước và mặt sau có chữ Nokia có số seri: 359375009073316, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.

- 01 (một) bơm kim tiêm và 01 (một) lọ Novocain không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[7]. Về các vấn đề khác:

Về nguồn gốc số heroine, Nguyễn Đức T khai mua với một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không rõ họ tên, địa chỉ) tại khu vực bến xe khách cũ thành phố C thuộc tổ M, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng. Tuy nhiên, việc trao đổi mua bán ma túy không có ai biết và chứng kiến. Do vậy, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng không có đủ căn cứ để xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành án phạt tù được tính kể từ ngày 17/4/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử:

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) bơm kim tiêm và 01 (một) lọ Novocain.

Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động màu đen, mặt trước và sau có chữ Nokia, có số seri theo quyết định chuyển vật chứng: 359375009073316, nắp ốp đầu trên của điện thoại bị mất một phần, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

Xác nhận số vật chứng này hiện nay đang nằm tại kho tang vật của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/7/2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử buộc bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 72/2020/HS-ST ngày 05/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:72/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;