Bản án 72/2019/HS-ST ngày 20/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỚN QUẢN, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 72/2019/HS-ST NGÀY 20/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20/11/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 76/2019/TLST-HS ngày 21/10/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử 75/2019/QĐXXST-HS ngày 05/11/2019 đối với bị cáo:

Đỗ Văn Th, sinh năm 1994 tại Bình Phước; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: ấp Quản L, xã Tân L, huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 2/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Văn T, sinh năm 1963 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1971; Bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Võ Thị Hồng H, sinh năm 1994; Bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2017; Tiền án: Không; Tiền sự: 02 - Ngày 12/6/2017 bị Công an xã Tân L, huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước xử phạt số tiền 750.000đ (Bảy trăm năm mươi ngàn đồng) về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 24/12/2018 bị Công an xã Tân L, huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước xử phạt số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm ngàn đồng) về hành vi Trộm cắp tài sản; Bị cáo có bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2019 đến ngày 02/10/2019 được Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Q quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh; Đến ngày 18/11/2019 bị bắt tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Anh Nguyễn Nhất Tr, sinh năm 1983 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: tổ 5, ấp Hưng Th, xã Tân L, huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước.

Ông Nguyễn Đức TN, sinh năm 1955 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: tổ 5, ấp Hưng Th, xã Tân L, huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước.

- Người làm chứng:

Anh Lê Duy Anh T, sinh năm 2002 (vắng mặt không có lý do).

Địa chỉ: tổ 4, ấp Phú Miêng, xã Tân L, huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Văn Thiêt và Lê Duy Anh T là bạn bè ngoài xã hội. Ngày 04/8/219, Th rủ T đi lấy trộm tổ yến về ăn thì T đồng ý. Khi đi Th và T mang theo 02 cái cờ lê và 01 cái kìm kim loại để phá khóa, Th điều khiển xe mô tô biển số 93C1-209.83 chở T đi đến khu vực tổ 5, ấp Hưng Th, xã Tân L, huyện Hớn Q rồi dừng xe, sau đó cả hai đi bộ đến nhà nuôi yến của ông Nguyễn Đức TN. Khi đến nơi, Th và T dùng cờ lê phá được ổ khóa phòng có loa gọi yến nhưng không phá được khóa cửa để vào khu vực nuôi yến, do vậy, cả hai đã chiếm đoạt 01 cây chọc chồi, 01 con dao bầu và 01 máy cắt cỏ bên hông nhà.

Trong quá trình điều tra, Th còn khai nhận ngày 03/8/2019, Th và T có hành vi chiếm đoạt một con chim trĩ của anh Nguyễn Nhất Tr và 01 bình xịt thuốc bảo vệ thực vật của ông Nguyễn Đức TN.

Tại kết luận định giá tài sản số 66/KL-HĐĐGTTTHS ngày 05/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hớn Q kết luận:

- Cây chọc chồi, cắt cành bằng kim loại có giá 595.000đ (năm trăm chín mươi lăm ngàn đồng);

- 01 con dao bằng kim loại có giá 30.000đ (ba mươi ngàn đồng);

- 01 Máy cắt cỏ bằng kim loại có giá 600.000đ (sáu trăm ngàn đồng);

- 01 Bình xịt thuốc có giá 510.000đ (năm trăm mười ngàn đồng);

- 01 Con chim trĩ có trọng lượng 01kg có giá 800.000đ (Tám trăm ngàn đồng);

Tại Bản cáo trạng số 70/CT-VKS ngày 18/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Đỗ Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn Th mức án từ 09 đến 12 tháng tù. Bị cáo không tranh luận, không kêu oan.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để về lo cho vợ con.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hớn Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Q và Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm nơi xảy ra vụ án và toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định:

Ngày 03/8/2019 Đỗ Văn Th và Lê Duy Anh T có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 con chim trĩ của anh Nguyễn Nhất Tr.

Ngày 04/8/2019 Đỗ Văn Th và Lê Duy Anh T có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 cây chọc chồi, cắt cành bằng kim loại, 01 máy cắt cỏ, 01 con dao bầu.

Tại kết luận định giá tài sản số 66/KL-HĐĐGTTTHS ngày 05/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hớn Q kết luận:

- Cây chọc chồi, cắt cành bằng kim loại có giá 595.000đ (năm trăm chín mươi lăm ngàn đồng);

- 01 con dao bằng kim loại có giá 30.000đ (Ba mươi ngàn đồng);

- 01 Máy cắt cỏ bằng kim loại có giá 600.000đ (Sáu trăm ngàn đồng);

- 01 Con chim trĩ có giá 800.000đ (Tám trăm ngàn đồng);

- 01 Bình xịt thuốc có giá 510.000đ (Năm trăm mười ngàn đồng). Tại Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định:

“ : Điều 173. Tội trộm cắp tài sản

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

....................................

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;.................................”.

Bị cáo Th chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 2.000.000đ (hai triệu đồng), tuy nhiên trước đó bị cáo Th bị Công an xã Tân L, huyện Hớn Q xử phạt hành chính số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm ngàn đồng) về hành vi trộm cắp tài sản, tính đến ngày thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản thì bị cáo Th chưa được xóa án tích. Đối chiếu với quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự thì hành vi của bị cáo Đỗ Văn Th đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Q truy tố bị cáo tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự ra trước phiên tòa hôm nay là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với Lê Duy Anh T: Là người thực hiện 02 vụ chiếm đoạt tài sản cùng Đỗ Văn Th, do T chưa có tiền án, tiền sự; giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 2 triệu đồng nên không có căn cứ để xử lý hình sự nên Công an huyện Hớn Q đã có quyết định số76 ngày 30/9/2019 xử phạt hành chính đối với Lê Duy Anh T.

[3] Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội cũng như tại phiên tòa công khai, bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên bị cáo chịu trách nhiệm bởi hành vi của mình.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xem thường pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương.

Xét về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, có 02 tiền sự: Ngày 12/6/2017 bị Công an xã Tân L, huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước xử phạt số tiền 750.000đ (Bảy trăm năm mươi ngàn đồng) về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, đến nay bị cáo chưa chưa chấp hành; Ngày 24/12/2018 bị Công an xã Tân L, huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước xử phạt số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm ngàn đồng) về hành vi Trộm cắp tài sản, chưa hết thời gian để được xem là không có tiền sự thì bị cáo lại tiếp tục thưc hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội của mình với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục, để bị cáo có thời gian học tập cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn, tài sản đã được thu hồi và trả lại cho bị hại. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Q đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là phù hợp được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về vật chứng vụ án: 04 cái cờ lê bằng kim loại và 01 cái kìm là công cụ bị cáo Th thực hiện hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với những vật chứng khác, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hớn Q đã xử lý xong theo quy định của pháp luật nên không xem xét.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại xác định đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên; 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2] Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn Th 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/11/2019, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2019 đến ngày 02/10/2019.

[3] Về án phí:

Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Đỗ Văn Th phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về vật chứng vụ án:

Tịch thu, tiêu hủy 04 cờ lê bằng kim loại; 01 cái kìm bằng kim loại.

(Theo quyết định chuyển vật chứng số 47/QĐ-VKS ngày 18/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Q, tỉnh Bình Phước).

[5] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Đối với bị hại, do vắng mặt tại phiên tòa nên thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 72/2019/HS-ST ngày 20/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:72/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;