TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 72/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2019 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN LÀ VỢ CHỒNG GIỮA CHỊ T VÀ ANH H
Ngày 22 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 249/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2019 về việc “Không công nhận là vợ chồng”
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2019/QĐXX-ST ngày 02 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T, sinh năm 1974 “vắng mặt”
Bị đơn: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1975 “vắng mặt”
Cùng địa chỉ: Thôn G, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/4/2019 các lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Vũ Thị T trình bày: Chị và anh Phạm Văn H tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1992, có tổ chức cưới theo phong tục địa phương nhưng không đến cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Cưới xong chị vÒ chung sống cùng anh H ngay. Thời gian đầu chung sống hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2010 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không còn thương yêu chăm sóc lẫn nhau. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được và đề nghị Tòa án không công nhận là vợ chồng giữa chị và anh H.
Về nuôi con chung: Quá trình chung sống giữa chị và anh H có 02 con chung là Phạm Văn Khiên, sinh năm 1993 và Phạm Văn Khương, sinh năm 1996. Các cháu đều khỏe mạnh, phát triển bình thường và đã trưởng thành nên chị không yêu cầu giải quyết.
Về tài sản chung; Chị và anh H tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết.
Tại bản tự khai và các lời khai tiếp theo tại Tòa, bị đơn anh Phạm Văn H trình bày: Về thời gian chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn như chị T trình bày là đúng. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được. Chị T đề nghị Tòa án không công nhận giữa anh và chị T là vợ chồng anh cũng nhất trí.
Về nuôi con chung: Quá trình chung sống giữa anh và chị T có 02 con chung như chị T trình bày là đúng, các cháu đã trưởng thành, anh không yêu cầu giải quyết.
Về tài sản chung: Anh và chị T tự thỏa thuận không đề nghị giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký Tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự chấp hành nghiêm chỉnh, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của phép luật. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 14 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, 227, 228, 238, 271, 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xử: Không công nhận là vợ chồng giữa chị Vũ Thị T và anh Phạm Văn H.
Về con chung, tài sản các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Ngoài ra còn đề xuất về án phí và quyền kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự. Chi T và anh H đều có đơn xin xét xử vắng mặt nên HĐXX căn cứ Điều 227, 228 và Điều 238 của BLTTDS xét xử vắng mặt các đương sự.
Về nội dung: Chị Vũ Thị T và anh Phạm Văn H tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1992 nhưng không đến cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi cưới chị T về chung sống cùng gia đình anh H ngay. Thời gian đầu chung sống hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2010 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không thông cảm và chia sẻ cùng nhau. Nay chị T và anh H đã sống ly thân. Cả chị T và anh H đều cho rằng giữa hai người không còn tình cảm, không thể đoàn tụ được và đều đề nghị Tòa án giải quyết không công nhận là vợ chồng. Do vậy cần căn cứ các Điều 14, Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình, không công nhận là vợ chồng giữa chị Vũ Thị T và anh Phạm Văn H.
Về nuôi con chung: Quá trình chung sống giữa chị T và anh H có 02 con chung là Phạm Văn Khiên, sinh năm 1993 và Phạm Văn Khương, sinh năm 1996. Các cháu đều khỏe mạnh, phát triển bình thường và đã trưởng thành, các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
Về tài sản chung: Các đương sự tự thỏa thuận không đề nghị giải quyết.
Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 14 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, 227, 228, 238, 271, 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:
1. Không công nhận là vợ chồng giữa chị Vũ Thị T và anh Phạm Văn H.
2. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ đã nộp tại biên lai thu số AA/2017/0003977 ngày 06/5/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện L.
Báo cho các đương sự vắng mặt tại phiên tòa biết, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 72/2019/HNGĐ-ST ngày 22/07/2019 về không công nhận là vợ chồng giữa chị T và anh H
Số hiệu: | 72/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/07/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về