TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN CHÂU TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 72/2018/HS-ST NGÀY 19/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 75/2018/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:
Mùa A S, sinh ngày 05/6/2000 tại huyện B, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản T, xã P, huyện B, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá (học vấn): 10/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Mùa A T, và bà Lý Thị D; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13 tháng 8 năm 2018 đến nay. Có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Mùa A T, sinh năm: 1980, nơi cư trú: Bản T, xã P, huyện B, tỉnh Sơn La. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tháng 3/2018, Mùa A S, sinh năm 2000, trú tại: Bản T, xã P, huyện B, tỉnh Sơn La được Đỗ Văn T, sinh năm 1983 thuê trông quán game tại nhà T, ở tiểu khu 4, thị trấn Y, Sơn La. S được Mùa A T (Bố đẻ của S) đưa cho chiếc xe máy BKS: 26E1 – 031.60 để làm phương tiện đi lại. Quá trình trông coi quán game, S thấy có khách đến chơi game hỏi S có ma túy bán không, nên S nảy sinh ý định đi mua ma túy, mục đích bán cho khách đến chơi game để kiếm lời.
Khoảng 9 giờ ngày 13/8/2018 Mùa A S mang theo số tiền 550.000đ (Năm trăm năm mươi nghìn đồng chẵn) rồi điều khiển xe máy BKS: 26 E1 – 031.60 đi từ quán game T Vân ở tiểu khu 4, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Sơn La theo đường quốc lộ 6A đến ngã ba bản Đ, xã C rẽ trái theo theo quốc lộ 6C đến bản Lao K1, xã P, huyện Y rồi vượt biên trái phép đến bản Keo L (Lào), mục đích để tìm mua ma túy để bán kiếm lời. Tại bản Keo L (Lào), S gặp một người đàn ông dân tộc Mông, không biết tên, tuổi, qua hỏi chuyện Sáy biết người đàn ông này có ma túy bán, S mua được của người đàn ông dân tộc Mông 24 viên nén màu hồng, trên bề mặt có ký hiệu WY được gói bằng giấy nilon màu trắng với giá 500.000đ. Sau khi mua được ma túy, S cất giấu vào túi quần trước bên trái đang mặc rồi đi về nhà.
Khoàng 12 giờ 30 phút cùng ngày, Sáy đi đến địa phận bản Keo M, xã P, huyện Y, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an huyện Y phối hợp với Công an xã P, Đồn biên phòng C phát hiện và bắt quả tang. S tự giác lấy số Methamphetamine trong túi quần trước bên trái giao nộp cho tổ công tác là: 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 24 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên có chữ WY nghi là Methamphetamine. Tổ công tác còn tạm giữ: - 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO A37FW, vỏ màu trắng bạc, máy cũ đã qua sử dụng; - 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SuZuKi, màu sơn đỏ đen, BKS: 26E1- 031.60; số khung: 100048; số máy: 100103, xe cũ đã qua sử dụng.
Ngày 13/8/2018 cơ quan CSĐT Công an huyện Y phối hợp với phòng PC54 Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng vật chứng thu giữ của Mùa A S: 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 24 viên nén màu hồng có khối lượng là 2,46 gam. Trích ra 05 viên nén màu hồng có khối lượng 0,51 gam kí hiệu H gửi giám định chất ma túy tại phòng PC54 Công an tỉnh Sơn La. Còn lại 1,95 gam kí hiệu S nhập kho tang vật vụ án.
Tại bản kết luận giám định số: 960 ngày 17/8/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu giám định ký hiệu H là ma túy, loại Methamphetamine; tổng khối lượng mẫu giám định là: 0,51 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,46 gam, loại Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số 61/CT-VKSYC ngày 25/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố Mùa A S về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Mùa A S phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt bị cáo như sau:
-Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Mùa A S từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Không ápdụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.
-Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015;điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì giấy niêm phong, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho tang vật vụ Mùa A S mua bán trái phép chất ma túy ngày 13/8/2018, gồm mẫu S = 1,95 gam + 01 phong bì giấy niêm phong vật chứng ban đầu + 01 mảnh giấy nilon mầu trắng”, mặt sau phong bì ghi cơ quan CSĐT Công an huyện Y, tỉnh Sơn La, giấy niêm phong ngày 13/8/2018 và đầy đủ chữ ký, tên của thành phần tham gia niêm phong và 02 hình dấu đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y.
Tạm giữ 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO A37FW, vỏ mầu trắng bạc, số IMEI1: 866977038867216, số IMEI2: 866977038867208, điện thoại đã qua sử dụng thu giữ của Mùa A S.
-Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Đề nghị HĐXX buộc bị cáo Mùa A S phải chịu án phí hình sự là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Tại phiên tòa, bị cáo Mùa A S khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra. Bị cáo công nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:
Tại phiên toà, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.
Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 30 phút ngày 13/8/2018; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày13/8/2018 Mùa A S đã mua trái phép chất ma túy với mục đích để bán lẻ kiếm lời với số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng chẵn). Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 13/8/2018 khi Mùa A S mang ma túy về đến địa phận bản Keo M, xã P, huyện Y thì bị tổ công tác phát hiện bắt giữ là 24 viên nén màu hồng có khối lượng 2,46 gam Methamphetamine . Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015. Khoản 1 Điều 251 BLHS quy định: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.
Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng dù bị cáo không phải là đối tượng nghiện ma tuý, nhưng bị cáo nhận thức hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.
Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Mùa A S ngày13/8/2018 là một người dân tộc Mông, quốc tịch Lào, S không biết tên, tuổi. Việc trao đổi buôn bán ma túy thuộc lãnh thổ nước CHDCND Lào nên cơ quan CSĐT không đủ điều kiện xác minh, làm rõ.
[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng, bị cáo không có tài sản gì, nên không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng của vụ án: Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 phong bì giấy niêm phong, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho tang vật vụ Mùa A S mua bán trái phép chất ma túy ngày 13/8/2018, gồm mẫu S = 1,95 gam + 01 phong bì giấy niêm phong vật chứng ban đầu + 01 mảnh giấy nilon mầu trắng”, mặt sau phong bì ghi cơ quan CSĐT Công an huyện Y, tỉnh Sơn La, giấy niêm phong ngày 13/8/2018 và đầy đủ chữ ký, tên của thành phần tham gia niêm phong và 02 hình dấu đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y. Đây là vật chứng liên quan đến việc phạm tội của bị cáo và là vật cấm lưu hành sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO A37FW, vỏ mầu trắng bạc, số IMEI1: 866977038867216, số IMEI2: 866977038867208, điện thoại đã qua sử dụng thu giữ của Mùa A S. Đây là Tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội lẽ ra phải trả cho bị cáo S. Tuy nhiên để đảm bảo cho công tác thi hành án, cần tạm giữ chiếc điện thoại trên bảo đảm cho việc thi hành phần án phí.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu SuZuKi, màu sơn đỏ đen, BKS: 26E1 – 031.60; số khung: 100048; số máy: 100103. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên thuộc sở hữu của Mùa A T, sinh năm 1980, trú tại: Bản T, xã P, huyện B, tỉnh Sơn La. Việc S sử dụng xe máy đi mua ma túy T không biết. Ngày 16/8/2018 cơ quan CSĐT Công an huyện Y đã trả lại chiếc xe máy trên cho chủ sở hữu là Mùa A T là đúng pháp luật cần chấp nhận.
[5] Về án phí: Bị cáo Mùa A S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuyên bố: Bị cáo Mùa A S phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Mùa A S 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/8/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.
2.Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
-Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì giấy niêm phong, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho tang vật vụ Mùa A S mua bán trái phép chất ma túy ngày 13/8/2018, gồm mẫu S = 1,95 gam + 01 phong bì giấy niêm phong vật chứng ban đầu + 01 mảnh giấy nilon mầu trắng”, mặt sau phong bì ghi cơ quan CSĐT Công an huyện Y, tỉnh Sơn La, giấy niêm phong ngày 13/8/2018 và đầy đủ chữ ký, tên của thành phần tham gia niêm phong và 02 hình dấu đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y.
-Tạm giữ 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO A37FW, vỏ mầu trắng bạc, số IMEI1: 866977038867216, số IMEI2: 866977038867208, điện thoại đã qua sử dụng thu giữ của Mùa A S, để đảm bảo cho việc thi hành phần án phí.
3.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Mùa A S phải chịu là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/11/2018), bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnhSơn La
Bản án 72/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 72/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về