TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 72/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 16 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnhTây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 389/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2018 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn và nuôi con”theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Hồng H, sinh năm 1991. Địa chỉ: Tổ 3, ấp K, xã C, huyện D, tỉnh Tây Ninh; Bị đơn: Anh Võ Thành C, sinh năm 1987.
Địa chỉ: Tổ 41, ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Tây Ninh. Chị H và anh C vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn, chị Bùi Thị Hồng H trình bày: Chị H yêu cầu ly hôn.
Chị và anh Võ Thành C chung sống từ năm 2011, không có tổ chức lễ cưới, hôn nhân tự nguyện có qua tìm hiểu trước, đến năm 2013 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Tây Ninh. Vợ chồng sống chung bên gia đìnhcha mẹ anh C tại ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Tây Ninh. Lúc đầu vợ chồng sống hạnh phúc, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do anh C thường xuyên tụ tập bạn bè quậy phá, không quan tâm chăm sóc gia đình, kinh tế gia đình gặp khó khăn, chị có khuyên nhiều lần nhưng anh C không nghe, cuối năm 2013 chị về bên gia đình cha mẹ chị sống tại ấp K, xã C, huyện D, tỉnh Tây Ninh, từ đó vợ chồng sống ly thân đến nay, trong thời gian sống ly thân anh C có đến thăm con, nhưng không có bàn bạc để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đến năm 2015, anh C bị Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt 14 năm tù về tội cướp tài sản và cướp giật tài sản và hiện đang chấp hành án tại Trại giam Cây Cầy tỉnh Tây Ninh, nên tình cảm vợ chồng không còn.
Do không có tổ chức lễ cưới, nhưng lúc tổ chức lễ phạt gia đình bên chồng có cho 01 đôi bông 01 chỉ vàng 24K, đã bán trong thời kỳ hôn nhân. Chị không yêu cầu giải quyết.
Về con chung: Có 01 người con Võ Mỹ A, sinh ngày 09-3-2012, hiện đang sống chung với chị. Chị yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con. Nghề nghiệp của chị hiện nay là buôn bán, thu nhập mỗi tháng 6.000.000 đồng đủ điều kiện nuôi con.
Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra chị không có yêu cầu gì khác.
Bị đơn, anh Võ Thành Công: Tại biên bản lấy lời khai ngày 07-6-2018 anh Ctrình bày. Anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Bùi Thị Hồng H.
Anh và chị H chung sống từ năm 2011, tự nguyện không ai ép buộc, không có tổ chức lễ cưới, đến năm 2013 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Tây Ninh. Trong thời gian chung sống vợ chồng có cãi vã nhau vì chuyện mâu thuẫn gia đình. Năm 2015, anh bị Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt 14 năm tù về tội cướp tài sản và cướp giất tài sản, hiện anh đang chấp hành án tại Trại giam Cây Cầy tỉnh Tây Ninh, từ ngày anh chấp hành án đến nay chị Hạnh có đến thăm một lần, nên tình cảm vợ chồng không còn.
Lúc tổ chức lễ phạt gia đình anh có cho chị H 01 đôi bông 01 chỉ vàng 24K,anh không yêu cầu giải quyết.
Về con chung: Có một người con và hiện đang sống với chị H như chị H trình bày. Anh đồng ý giao cho chị H được quyền tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục con chung, anh không phải cấp dưỡng nuôi con do đang chấp hành án.
Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có. Ngoài ra anh không có yêu cầu gì khác.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án:
- Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa; việc chấp hành của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án đến khi vào nghị án thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Bùi Thị Hồng H đối với anh Võ Thành C theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Giao cho chị H được quyền tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu Võ Mỹ A, sinh ngày 09-3-2012 theo quy định tại Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng: Tại phiên tòa nguyên đơn và bị đơn đều có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Nên vụ án vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung:
[1] Về hôn nhân: Yêu cầu xin ly hôn của chị Bùi Thị Hồng H là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do anh do anh C thường xuyên tụ tập bạn bè quậy phá, không chăm sóc gia đình, kinh tế gia đình gặp khó khăn, chị có khuyên nhiều lần nhưng anh C không nghe, cuối năm 2013 chị về bên gia đình cha mẹ chị sống tại ấp K, xã C, huyện D, tỉnh Tây Ninh, từ đó vợ chồng sống ly thân đến nay, trong thời gian sống ly thân anh C có đến thăm con, nhưng không có bàn bạc để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đến năm 2015, anh C bị Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt 14 năm tù về tội cướp tài sản và cướp giật tài sản và hiện đang chấp hành án tại Trại giam Cây Cầy tỉnh Tây Ninh, nên tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh C ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài , mục đích hôn nhân không đạt được. Nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.
[2] Về con chung: Có một người con Võ Mỹ A, sinh ngày 09-3-2012, hiện đang sống chung với chị H. Anh C đồng ý giao cho chị H được quyền tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình. Do anh C đang chấp hành án tại Trại giam Cây Cầy tỉnh Tây Ninh.
Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
[3] Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.
[4] Về nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.
Về án phí: Chị H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình.
1. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Bùi Thị Hồng H đối với anh Võ Thành C. Chị Bùi Thị Hồng H được ly hôn với anh Võ Thành C.
Về con chung: Giao cho chị H được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Võ Mỹ A, sinh ngày 09-3-2012. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con.
Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.
2. Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng). Ghi nhận chị H đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0013524 ngày 17-5-2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Dầu được khấu trừ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Báo cho các bên đương sự biết, có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã (phường) và nơi cư trú.
Bản án 72/2018/HNGĐ-ST ngày 16/07/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn và nuôi con
Số hiệu: | 72/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/07/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về