Bản án 72/2018/HNGĐ-ST ngày 12/11/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 72/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 12 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 469/2018/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Khánh D; nơi cư trú: Số 29/62 P, phường L, Quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Đinh Thị Thu H; nơi cư trú: Số 29/62 P, phường L, Quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Trần Khánh D trình bày: Anh và chị H xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu nhau, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 71 quyển số 01 ngày 07/10/2010 tại Ủy ban nhân dân phường N, quận Đ, thành phố Hải Phòng.

Đến nay, vợ chồng đã có 01 con chung.

Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không có kết quả. Thực tế đến nay, hai bên đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay anh D xác định tình cảm giữa anh và chị H không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị H.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Khánh P, sinh ngày 30/01/201P. Ly hôn, anh đề nghị Tòa án giao con chung cho chị H nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, anh D vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và tại phiên tòa, anh D vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt đồng thời thể hiện vẫn giữ nguyên quan điểm như đơn khởi kiện.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị H trình bày:

Chị thống nhất với lời khai của của anh D về điều kiện kết hôn và thừa nhận quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tình tình không phù hợp nên dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã nhau. Nay chị cũng xác định tình cảm giữa chị và anh D không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh D.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Khánh P, sinh ngày 30/01/201P. Ly hôn, chị H có nguyện vọng được nuôi con chung đến khi con đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn trình bày của cháu Trần Khánh P thể hiện quan điểm trong trường hợp bố mẹ ly hôn, cháu P có nguyện vọng muốn ở với mẹ.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các điều 8, 9, 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Trần Khánh D được ly hôn chị Đinh Thị Thu H.

- Về con chung: Giao con chung Trần Khánh P, sinh ngày 30/01/201P cho chị Đinh Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.

- Về tài sản chung: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.

- Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc anh D phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn anh Trần Khánh D vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh D.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và biên bản làm việc ngày 04/10/2018 thể hiện chị H hiện tạm trú tại số 29/62 P, phường L, Quận L, thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

- Về quan hệ hôn nhân:

[3] Việc kết hôn giữa anh Trần Khánh D và chị Đinh Thị Thu H tuân thủ đúng quy định tại các điều 8, 9 Luật Hôn nhân và gia đình nên là hôn nhân hợp pháp.

[4] Trong quá trình giải quyết vụ án hai bên đều xác nhận là vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2017. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã lẫn nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không thành. Thực tế đến nay, hai bên đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Hiện tại hai bên xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị H và anh D trên thực tế đã không còn, mâu thuẫn thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Bởi vậy, yêu cầu của anh D được ly hôn với chị H là hoàn toàn chính đáng, phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định tại các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận.

- Về con chung:

[5] Về việc chăm sóc nuôi dưỡng con chung: Hai bên có 01 con chung là Trần Khánh P, sinh ngày 30/01/201P. Sau khi ly hôn, anh D đề nghị Tòa án giao con chung cho chị H nuôi dưỡng, chị H có nguyện vọng nuôi con chung và nguyện vọng của cháu P muốn ở với mẹ. Vì vậy giao con chung Trần Khánh P cho chị H nuôi dưỡng chăm sóc là phù hợp với điều kiện thực tế và phù hợp với quy định tại các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

[7] Về tài sản chung: Hai bên không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.

[8] Về án phí: Anh Trần Khánh D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 8, 9, 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Trần Khánh D và chị Đinh Thị Thu H.

- Về con chung: Giao con chung Trần Khánh P, sinh ngày 30/01/201P cho chị Đinh Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Anh Trần Khánh D phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền trên anh D đã nộp đủ tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0012786 ngày 11 tháng 9 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

- Về quyền kháng cáo:

Chị Đinh Thị Thu H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Khánh D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 72/2018/HNGĐ-ST ngày 12/11/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:72/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;